Cha Paul Couvreur là cựu thành viên Ban Thường Trực của Hội Thừa Sai
Paris (MEP). Trước khi được chỉ định vào nhiệm vụ này, Cha từng là nhà thừa sai ”bôn-ba”,
hay nói đúng hơn, từng ”phiêu-lưu” từ cứ điểm truyền giáo này sang cứ điểm truyền
giáo khác, tùy theo quyết định của Bề Trên, dựa vào các nhu cầu các Giáo Hội địa phương.
Xin nhường lời cho Cha kể lại lịch trình 30 năm truyền giáo.
Sự kiện tôi chào
đời nhằm ngày 6-1 lễ Hiển Linh và được rửa tội với tên thánh Phaolô, nhiều người khôi
hài nói với tôi: ”Con đường truyền giáo đã vạch sẵn!” tức là ”định mệnh đã an bài”!
Đúng thế, với điều kiện luôn nhớ rằng trong hành trình của nhà truyền giáo - giống
bất cứ cuộc hành trình nào khác - đều ghi đậm dời đổi và gặp gỡ bất ngờ!
Thành
viên Hội Thừa Sai Paris đồng nghĩa với truyền giáo cho đến chết. Vào năm lãnh chức
phó tế, tôi được chỉ định đi Đài-Loan. Lòng tôi khấp khởi vui mừng với ý tưởng:
- Ra đi làm việc nơi một miền truyền giáo đang nở rộ các cuộc xin theo đạo Công Giáo
của người dân địa phương!
Thế nhưng, niềm vui không kéo dài lâu. Một thời
gian ngắn sau đó, tôi được lệnh Bề Trên phải thuyên chuyển sang Mã-Lai. Cây non chưa
đâm đủ rễ nơi vùng đất Đài-Loan, tôi phải lên đường sang Mã-Lai nhận nhiệm vụ giáo
sư nơi Đại Chủng Viện Pénang. Tôi ngậm ngùi từ biệt Đài-Loan và giơ tay chào đón Mã-Lai.
Tôi phải bỏ ra hai năm ròng rã để học tiếng Tàu quan-thoại!
Nhưng ”bất ngờ”
luôn chờ đón tôi. Sau 6 năm làm việc tại Á châu, tôi lên đường về Pháp nghỉ phép.
Kỳ nghỉ qua đi nhưng chiếu khán tái nhập cảnh Mã-Lai vẫn chưa tới tay, khiến tôi bị
bắt buộc ở lại Pháp để làm việc truyền giáo ngay trên đất Pháp. Trước tiên tôi được
một năm để bồi bổ sức lực truyền giáo. Sau đó, tôi theo học một khóa thợ nề để có
thể làm việc nơi công trường giữa người di dân. Vì không thể đi ra nước ngoài, tôi
tìm gặp gỡ người ngoại quốc ngay trên đất nước Pháp của tôi. Tôi làm việc như thế
trong vòng 3 năm. Và niềm hy vọng trở lại Mã-Lai tan biến với thời gian, vì những
khó khăn không thể vượt qua được.
Sau cùng, Bề Trên đề nghị tôi chuyển sang
làm việc tại Nam Hàn. Nhưng Giáo Hội Công Giáo Nam Hàn đã phát triển mạnh với một
lực lượng hùng hậu về hàng giáo sĩ, chủng sinh và tu sĩ nam nữ. Vì thế, nhà truyền
giáo đến Nam Hàn có thể làm việc trong những môi trường đặc thù khác. Chẳng hạn đi
đến với người ngoài Giáo Hội Công Giáo, không phải đưa họ về với Giáo Hội Công Giáo,
nhưng chỉ sống giữa họ để nối kết mối giao hảo với họ và làm chứng cho họ biết rằng:
- Tất cả đều thuộc về một Gia Đình duy nhất, tất cả đều là con cái của THIÊN CHÚA,
là CHA trên Trời của hết mọi người, không trừ ai.
Trong chiều hướng đó, tôi
trở thành một nông dân làm thuê độ nhật bên cạnh các nông dân ngoại giáo. Công việc
này tôi chu toàn trong vòng 20 năm trời.
Cuộc sống bên cạnh anh chị em nông
dân Nam Hàn không Công Giáo đòi hỏi nhiều nhẫn nại, kiên trì và vững chắc trong Đức
Tin Kitô của mình. Ban đầu, lối sống truyền giáo này cũng gặp nhiều khó khăn và hiểu
lầm. Các nông dân tỏ ra ngạc nhiên và thắc mắc:
- Tại sao một người Âu Châu
có học thức, thuộc một tôn giáo khác, lại chọn một nghề lao nhọc bằng tay chân để
kiếm chén cơm ăn mỗi ngày?
Đúng ra, tôi trở thành ”một cuộc gặp gỡ không đợi
không chờ” đối với họ! Cứ mỗi lần tôi chủ ý đổi chủ - sau hai tuần làm việc - các
nông dân mới hỏi ngay: ”Sao anh lại làm thế?” Và câu trả lời của tôi trước sau như
một:
- Tôi làm vậy, bởi vì, THIÊN CHÚA tôi tôn thờ từng làm như thế cho tất
cả mọi người chúng ta, không phân biệt và loại trừ ai!
Phải chăng cuộc gặp
gỡ với THIÊN CHÚA làm người chẳng gì khác hơn là ”cuộc gặp gỡ bất ngờ” với người nào
đó, và nhất là, sống trọn vẹn chứng tá niềm tin vào Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ
của mình?
... Khi Đức Chúa GIÊSU đến vùng kế cận
thành Xêdarê Philipphê, Người hỏi các môn đệ rằng: ”Người
ta nói Con Người là Ai?” Các ông thưa: ”Kẻ thì nói là Ông Gioan
Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Ông Êlia, có người lại cho là Ông Giêrêmia hay
một trong các vị Ngôn Sứ”. Đức Chúa GIÊSU lại hỏi: ”Còn anh em, anh
em bảo Thầy là Ai?” Ông Simon Phêrô thưa: ”Thầy là Đấng
KITÔ, Con THIÊN CHÚA Hằng Sống!” (Matthêô 13-16).
(”Missions Étrangères
de Paris”, n.353, Novembre/2000, trang 265-267)