Sau 18 năm làm việc cho phường Montagnole ở Savoie, miền Trung Đông nước Pháp, bà
Bernadette Joly dấn thân trong giáo xứ và giúp Trung Tâm đón tiếp Bệnh Nhân tại Lộ
Đức. Sau đây là chứng từ của bà về phẩm giá cao cả của con người, bất luận là ai:
sang hèn, giàu nghèo, trẻ già và lành tật.
Tôi làm y tá từ 34 năm và phải
thành thật thú nhận rằng, tôi may mắn hành nghề tôi chọn: một nghề tuy khó khăn nhưng
đầy hứng khởi, một nghề tôi yêu thích. Trong nhiều lãnh vực khác nhau suốt thời gian
hoạt động nơi nhà thương, nghề nghiệp của tôi không diễn ra một chiều. Tôi có thể
quả quyết:
- Tôi cho đi ít hơn là nhận lãnh về mọi phía: từ bệnh nhân đến
gia đình của họ và từ các bạn đồng nghiệp.
Hiện nay tôi hợp tác với khoảng
30 y tá và 10 bác sĩ. Tất cả là nhân viên thiện nguyện, làm việc cho trạm phát thuốc
của thành phố. Trạm nối liền với Bệnh Viện là nơi đón tiếp, chẩn bệnh và chữa trị
cho người cùng khổ, phần đông vô gia cư, không nghề nghiệp. Đây là môi trường giúp
tôi tiếp xúc trực tiếp với cái nghèo khổ, dưới đủ mọi hình thái. Nhờ đó, tôi ý thức
cái dòn mỏng của thân phận con người. Cùng lúc, công việc giúp tôi luôn sống khiêm
tốn, kiên nhẫn và khoan dung. Cứ mỗi lần trông thấy một người trở lại trạm chẩn bệnh
với cùng một vấn đề như nghiện rượu, ma túy, lòng tôi dâng lên niềm thông cảm sâu
xa. Nhưng nhất là, người ấy nhắc tôi nhớ rằng:
- Tôi là tội
nhân luôn sa đi ngã lại, phạm cùng một thứ tội. Nhưng
cứ mỗi lần đi xưng tội, tôi lại
được THIÊN CHÚA tha thứ và yêu thương.
Những khuôn mặt tôi gặp tại trạm phát thuốc miễn phí thường hằn sâu nét cứng cỏi vì
điều kiện sống khó khăn, hay phải tranh đấu để sống còn. Thế nhưng, đó cũng là những
gương mặt dấu ẩn nhiều ân huệ tuyệt vời. Những người này đôi khi có hành động cộc-cằn,
nhưng họ cũng có khả năng tiếp đón, giúp đỡ tha nhân cách mau mắn lạ thường. Khi chứng
kiến nghĩa cử cao đẹp ấy, tôi tự nhủ:
- Đây là dấu chứng
sự hiện diện của THIÊN CHÚA nơi mỗi người.
Vâng, đúng thế, cuộc đời mỗi
người là một cuốn truyện thánh thiêng!
... Sau đây là
cuộc theo Đạo Công Giáo của anh Didier, người Pháp.
Anh Didier bị tổn thương
vì cuộc sống. Anh từng lang thang trên các vỉa hè thành phố, từng vào tù ra khám,
từng nghiện ngập rượu chè, ma túy. Sau cùng, anh đến ăn mày lòng thương xót của các
tín hữu Công Giáo, trước thềm nhà thờ xứ đạo Nimes (Nam Pháp).
Vào một buổi
sáng Chúa Nhật tháng 10 năm 1997, anh Didier đứng nơi chỗ thường lệ, giơ tay xin của
bố thí. Sau Thánh Lễ, rời nhà thờ, khi đi qua mặt anh, các tín hữu có thói quen trao
đổi vài câu thăm hỏi ngắn ngủi, trước khi bỏ vào mũ anh vài đồng tiền bác ái. Người
sau cùng rời thánh đường là Nữ Tu mà anh Didier quen biết từ ít lâu nay. Anh ngước
mắt nhìn Nữ Tu và nói:
- Thưa Chị, em muốn được Rửa Tội!
Thoáng một
giây ngỡ ngàng, Nữ Tu đứng lại nói chuyện và hiểu câu nói quả xuất phát từ lòng ước
muốn chân thành. Anh Didier ghi danh theo học khóa giáo lý dành cho người lớn. Trong
vòng hai năm, anh trung thành tham dự các buổi học giáo lý. Anh khám phá ra cuộc đời
và giáo huấn của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ Duy Nhất của loài người. Kinh nguyện
anh yêu thích nhất là Kinh Lạy Cha.
Sau cùng, buổi cử hành bí tích Rửa Tội
được ấn định vào ngày thứ bảy 14-7-1999. Trước đó, toàn giáo xứ và các giáo xứ phụ
cận cũng được loan báo tin vui. Mọi người hân hoan chuẩn bị cho cuộc đại lễ, mừng
ngày gia nhập Giáo Hội Công Giáo của một người con thân yêu, sau bao tháng ngày rong
chơi bụi đời. Hôm ấy, nhà thờ được trang hoàng đầy hoa và ánh sáng. Đông đảo giáo
hữu có mặt. Anh Didier thật sự cảm động và sung sướng. Từ nay, anh có một gia đình,
với không biết bao khuôn mặt thân yêu, trìu mến.
Tuy nhiên, cuộc theo Đạo
Công Giáo của anh Didier không dừng tại đó. Sau khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, anh quyết
định trở về nguyên quán, đoàn tụ với gia đình. Anh muốn bắt đầu cuộc sống mới, cuộc
sống làm chứng tá cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ nơi gia đình và quê hương anh.
... ”Chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của
chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của
chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện
tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng
ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến
những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những
thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (2 Côrintô 4,16-18).