Giáo Hội Công Giáo Australia đón tiếp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ XXIII tại
Sydney là một Giáo Đoàn trẻ trung nhưng năng động và nắm giữ vai trò trọng yếu trong
đời sống xã hội cũng như công cộng của đất nước. Theo thống kê do Hội Đồng Giám Mục
Australia phổ biến thì tín hữu Công Giáo chiếm tỉ số cao nhất giữa các Kitô hữu khác
trong toàn nước.
Thật thế, tín hữu Công Giáo chiếm hơn một phần tư trên tổng
số 20 triệu 343 ngàn dân Úc, tức chiếm 27,7% với 5 triệu 635 ngàn tín hữu Công Giáo.
Giáo Hội Công Giáo Australia có 33 giáo phận với 1.390 giáo xứ. Hiện tại có 65 Giám
Mục và hơn 3100 Linh Mục với hơn phân nửa là Linh Mục triều. Ngoài ra còn có khoảng
2200 nam tu sĩ, 7.167 nữ tu và 8.200 giáo lý viên.
Giáo Hội Công Giáo Australia
nắm vai trò sinh động trong lãnh vực xã hội và giáo dục. Giáo Hội điều khiển 1.749
trường tiểu học, 473 trường trung học, 30 trường Cao Đẳng và Đại Học với hơn 700 ngàn
sinh viên học sinh.
Trong phạm vi xã hội, Giáo Hội Công Giáo Australia điều
khiển 58 bệnh viện, 407 Trung Tâm săn sóc người cao niên và người tàn tật, 164 viện
cô nhi và vườn trẻ, 480 trung tâm tái hội nhập xã hội và 210 văn phòng cố vấn nhằm
giúp đỡ các gia đình gặp khó khăn và bênh vực sự sống con người.
Chủ Tịch
Hội Đồng Giám Mục Australia hiện nay là Đức Cha Philip E Wilson, Tổng Giám Mục Adelaide
và Phó Chủ Tịch là Đức Cha Barry J Hickey, Tổng Giám Mục Perth.
Một điểm đáng
chú ý trong lịch sử hiện đại của Giáo Hội Công Giáo Australia là sự gia tăng đáng
kể con số tín hữu Công Giáo giữa các cộng đoàn thổ dân. Hiện nay có 100 ngàn thổ dân
Công Giáo, tức là gia tăng 7% so với năm 2001. Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội có con
số tín hữu Công Giáo thổ dân đông nhất so với các Giáo Hội Kitô khác. 26% thổ dân
là tín hữu Công Giáo.
Các chuyến viếng thăm mục vụ của các
Đức Giáo Hoàng tại Australia
Với chuyến công du nhân Ngày
Quốc Tế Giới Trẻ XXIII tại Sydney, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là vị Giáo Hoàng thứ
ba viếng thăm Giáo Hội Công Giáo Australia và là chuyến viếng thăm thứ tư của một
vị Giáo Hoàng. Vị Giáo Hoàng đầu tiên đặt chân lên đất Australia là Đức Phaolô VI
(1963-1978) vào tháng 11 năm 1970. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) viếng
thăm Australia ba lần. Lần đầu tiên vào năm 1973 khi còn là Tổng Giám Mục Cracovia
nhân Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế XL diễn ra tại Melbourne. Hai lần sau trong tư cách
Chủ Chăn Giáo Hội Hoàn Vũ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viếng thăm mục vụ Australia
vào năm 1986 và năm 1995. Trong lần viếng thăm vào năm 1986 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II rảo quanh toàn lãnh thổ Australia. Biến cố đáng ghi nhớ và cảm động nhất trong
lần viếng thăm này là cuộc gặp gỡ với cộng đoàn thổ dân ở miền Trung Australia. Vào
năm 1995 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trở lại Sydney để tôn phong vị chân phước đầu
tiên của Giáo Hội Công Giáo Australia là nữ tu Mary McKillop (1842-1909). Buổi lễ
tôn phong chân phước đã diễn ra tại sân đua ngựa Randwick. Đây cũng là nơi sẽ diễn
ra cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI với giới trẻ trong khung cảnh Ngày Quốc
Tế Giới Trẻ XXIII vào tối thứ bảy và sáng Chúa Nhật 20-7-2008.
Sơ lược
lịch sử Giáo Hội Công Giáo Australia
Có thể nói được rằng, lịch sử Giáo
Hội Công Giáo Australia đi song song với lịch sử các cuộc di dân. Vào thế kỷ XIX khi
khối thực dân Âu châu đến đóng tại Australia thì cùng lúc họ cũng mang theo tôn giáo
của các nhóm di dân như: Anh Giáo, Công Giáo và các hệ phái tin lành. Nhóm Kitô hữu
đầu tiên đặt chân lên Australia vào năm 1788 là các tín hữu Công Giáo đến từ Ái-nhĩ-lan
trên chiếc tàu do thuyền trưởng Arthur Philip điều khiển.
Mãi đến 15 năm sau,
Australia mới có Thánh Lễ đầu tiên được cử hành vào ngày 15-5-1803 và do một Linh
Mục Ái-nhĩ-lan. Đó là Cha James Dixon. Cha được quan toàn quyền Australia giao trách
nhiệm trông coi cộng đoàn nhỏ bé các tín hữu Công Giáo. Từ đó ngày 15-5 đi vào lịch
sử. Hàng năm Cộng đoàn Công Giáo cử hành ngày này như một biến cố đánh dấu nền tự
do tôn giáo được dành cho các tín hữu Công Giáo.
Trước khi hàng giáo phẩm
Giáo Hội Công Giáo chính thức thành hình tại Australia phải nói đến công cuộc truyền
giáo của Giáo Hội Anh Giáo, xét vì sự có mặt đông đảo của các tín hữu Anh Giáo đi
theo các tàu bè của người Anh. Do đó, trong bước đầu, chỉ có Anh Giáo được xem như
tôn giáo được chính thức thừa nhận tại Australia.
Không biết bao nhiêu lần,
các Linh Mục Công Giáo tìm cách đặt chân đến thường trú tại Australia nhưng không
có kết quả. Do đó nhóm tín hữu Công Giáo ít ỏi bị bắt buộc phải tham dự Thánh Lễ Chúa
Nhật với tín hữu Anh Giáo. Chưa hết, các tín hữu Công Giáo phải xin các linh mục Anh
Giáo cử hành các nghi lễ như Rửa Tội, Hôn Phối và An Táng. Năm 1802 con số tín
hữu Công Giáo tại Australia lên đến 1700 người nhưng vẫn chưa có Linh Mục Công Giáo
trông coi. Phải đợi mãi đến ngày 15-5-1803 khi quan toàn quyền chính thức cho phép
cử hành Thánh Lễ đầu tiên cho một nhóm tù lưu đày là tín hữu Công Giáo tại The Rocks.
Sau đó cộng đoàn Công Giáo lại yêu cầu có Linh Mục Công Giáo đến giúp đỡ và ban các
bí tích nhưng đơn xin vẫn bị bác bỏ. Mãi cho đến năm 1819, cộng đoàn Công Giáo mới
có được 2 Linh Mục được chính quyền bảo hộ cho phép đến trông coi. Đó là hai Cha Joseph
Therry và Philip Connolly. Vào năm 1828 số tín hữu Công Giáo tại Australia lên đến
10 ngàn người.
Năm 1834 Đức Thánh Cha Gregorio XVI (1831-1846) thiết lập tòa
Giám Quản Tông Tòa tại New Holland và chỉ định Cha John Bede Polding làm Giám Quản
Tông Tòa đầu tiên. Đức Cha John Bede Polding là một đan sĩ Biển Đức người Anh. Ngài
trở thành vị Giám Mục Công Giáo đầu tiên của Australia.
Nguyện ước của Đức
Cha Polding là xây dựng Giáo Hội Công Giáo Australia trên lý tưởng đan tu Anh quốc.
Thế nhưng các Linh Mục thuộc quyền Đức Cha Polding - đa số là các Linh Mục triều Ái-nhĩ-lan
- lại có những nguyện ước khác. Và các Linh Mục Ái-nhĩ-lan đã thắng thế. Chính các
ngài đã tạo ảnh hưởng đạo đức mạnh trên Giáo Hội Công Giáo Australia cho tới năm 1930
thì chấm dứt khi con số Linh Mục địa phương Australia chiếm đại đa số.
Vào
thập niên 1950 Giáo Hội Công Giáo Australia gia tăng đáng kể và bắt đầu chiếm tỉ số
cao giữa lòng dân tộc Australia và được phân phối thành các giáo xứ trên toàn nước
Australia. Cộng Đoàn Công Giáo lớn mạnh đúng theo ước nguyện của các Linh Mục và Giám
Mục Ái-nhĩ-lan ngay từ thưở ban đầu, nghĩa là một Cộng Đoàn Công Giáo vững chắc sống
theo khuôn mẫu Đức Tin và tâm thức tôn giáo Ái-nhĩ-lan.
Xã Hội Australia bắt
đầu biến chuyển mạnh với các đợt di cư ồ ạt trong các thập niên 1960 và 1970. Đó là
những đợt di cư đến từ Ý, Đại Hàn, Phi-luật-tân, HongKong, Nam Mỹ, Sudan, Croat, Hungari,
Liban và Việt Nam. Giáo Hội Công Giáo Australia không thể nằm ngoài vòng biến chuyển
này, vì trong số các di dân cũng có tín hữu Công Giáo. Các tín hữu Công Giáo di dân
mong muốn tham dự Thánh Lễ trong tiếng mẹ đẻ và có các trường học cho con em của họ.
Giáo Hội Công Giáo Australia tìm cách đáp ứng nhu cầu các tín hữu Công Giáo di dân
bằng cách cho xây các nhà thờ và trường học mới. Giáo Hội Công Giáo Australia cũng
rất chú tâm trên bình diện mục vụ hầu có thể săn sóc tinh thần cho tất cả các nhóm
di dân Công Giáo. Các nhóm di dân Công Giáo đông nhất thường qui tụ tại hai thành
phố Sydney và Melbourne.
Quan Thầy Ngày Quốc Tế Giới Trẻ XXIII tại Sydney
Thể theo truyền thống, Ngày Quốc Tế Giới Trẻ XXIII tại Sydney được đặt dưới sự bảo
trợ của 10 vị Hiển Thánh và Á Thánh. Đức Cha Anthony Fisher OP - điều hợp viên cho
Ngày Quốc Tế Giới Trẻ XXIII tại Sydney giải thích: ”Chúng tôi mời gọi các bạn trẻ
noi gương và học hỏi nơi cuộc đời các vị Quan Thầy và hiểu rằng nhờ sức mạnh Thần
Linh Đức Chúa GIÊSU KITÔ một người bình thường cũng có thể làm được những việc khác
thường”. 10 vị Bảo Trợ sẽ được chú ý dọc theo các biến cố chính diễn ra trong thời
gian Ngày Quốc Tế Giới Trẻ XXIII, kể cả tại buổi Canh Thức nơi sân đua ngựa Randwick
vào tối thứ bảy 19-7-2008. Sau đây là danh sách 10 Vị Quan Thầy.
1/
Đức Bà Thánh Giá Miền Nam, Phù Hộ các Giáo Hữu
Đức MARIA
- Đấng Phù Hộ Các Kitô Hữu - Hiền Mẫu Thiên Quốc và là Đức Nữ Trinh, là mẫu gương
tuyệt hảo cho mọi người, nữ cũng như nam. Đức MARIA đã ”THƯA VÂNG” với THIÊN CHÚA
ngay từ lúc còn là thiếu nữ. Đức MARIA là Quan Thầy Australia dưới tước hiệu Đấng
Phù Hộ các Giáo Hữu đồng thời cũng là Vị Quan Thầy của Tổng Giáo Phận Sydney với Nhà
Thờ Chính Tòa dâng kính Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu. Các tín hữu Công Giáo Úc và Đại
Dương Châu đặc biệt sùng kính Đức Mẹ MARIA dưới tước hiệu Đức Bà Thánh Giá Miền Nam.
2/ Chân phước Pier Giorgio Frassati (1901-1925)
Chân
phước 24 tuổi người Ý - Pier Giorgio Frassati - rất được giới trẻ yêu kính vì nhân
cách tươi vui hài hước, vì lòng yêu chuộng thể thao và nhất là vì các hoạt động xã
hội và bác ái dành cho người nghèo, người yếu thế. Sinh trưởng trong một gia đình
thế giá giàu sang, ngay từ 17 tuổi, Pier Giorgio gia nhập hội từ thiện Thánh Vinh
Sơn Phaolô và dâng hiến phần lớn thời gian cho việc chăm sóc người đau yếu cùng những
ai nghèo khổ túng thiếu cần được giúp đỡ. Pier Giorgio còn là thành viên Hiệp Hội
Sinh Viên, hoạt động chống lại nhóm phát-xít đang hoành hành tại Ý thời bấy giờ.
3/ Nữ chân phước Mary MacKillop (1842-1909)
Mary MacKillop - nữ chân phước đầu tiên của Giáo Hội Công Giáo Australia - là nữ tôi
tớ của người nghèo, người thất học và là vị sáng lập dòng các Nữ Tu Thánh GIUSE. Chính
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong nữ tu Mary MacKillop lên hàng chân phước
vào năm 1995 tại Sydney. Nữ chân phước Mary MacKillop để lại cho toàn đại lục Úc và
Đại-Dương-Châu một sản nghiệp mênh mông về lòng quảng đại và về ý chí cương quyết
muốn đáp ứng mọi nhu cầu của người nghèo, thể theo đức bác ái của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
4/ Thánh Pierre Chanel (1803-1841)
Thánh Pierre Chanel là một Linh
Mục Thừa Sai người Pháp bị giết vì đạo Công Giáo trên đảo Wallis và Futuna. Vừa khi
đặt chân lên đảo, Cha Pierre Chanel ghi nhận ngay thảm trạng tranh chấp giữa các bộ
lạc và tục ăn thịt người đã giết chết không biết bao nhiêu sinh mạng. Số người sống
sót ít ỏi lại bị bắt buộc phải đi theo một thứ tôn giáo tôn thờ thần dữ để có thể
sống còn! Cha Pierre Chanel bắt tay ngay vào việc rao giảng Tin Mừng Đức Chúa GIÊSU
KITÔ và chiếm được cảm tình của các thổ dân. Nhưng chính vì thế mà Cha bị giết chết.
Di hài Cha - trên đường đưa về Pháp và Roma - đã đi qua ngỏ Tân Zeland và Australia,
và được trưng bày cho tín hữu Công Giáo đến kính viếng trong vòng hai tuần lễ tại
Villa Maria ở Sydney.
5/ Chân Phước Pierre
To Rot (1912-1945)
Chân Phước Pierre To Rot là một giáo dân sinh trưởng
tại Papua Tân Guinea. Là một giáo lý viên nhiệt thành và là người cha gia đình có
ba đứa con, Chân Phước Pierre To Rot bị hành hung và bị giết chết lúc mới 33 tuổi
vì Đức Tin Công Giáo tại trại tập trung Nhật Bản vào cuối thế chiến thứ hai, năm 1945.
6/ Nữ Chân Phước Teresa Calcutta (1910-1997)
Đối với nhiều người thì Mẹ Teresa Calcutta là một khuôn mặt nữ giới khả ái của Giáo
Hội Công Giáo hiện đại. Dâng hiến cuộc đời để phục vụ những người bị xã hội bỏ rơi,
Mẹ Teresa Calcutta - người nghèo giữa muôn người nghèo - đã thành công trong việc
đưa tình yêu vào hành động. Năm 1950 Mẹ Teresa Calcutta được Tòa Thánh cho phép thành
lập một Dòng Tu với sứ mệnh giúp đỡ những người sống ngoài lề xã hội và phải chịu
đau khổ về cả hai mặt thể xác lẫn tinh thần. Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái chào đời từ
đó.
7/ Thánh nữ Teresa thành Lisieux (1873-1897)
Qua
đời vào năm 24 tuổi, thánh nữ Teresa Hài Đồng GIÊSU là nữ Tiến Sĩ Hội Thánh trẻ tuổi
nhất và là Quan Thầy nước Australia. Vào năm 15 tuổi, thiếu nữ Teresa xin gia nhập
Dòng Kín Cát-minh, nhưng không được chấp thuận. Vẫn kiên trì trong ước muốn thực hiện
ơn gọi, Teresa quyết định đi Roma gặp Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878-1903). Nhờ sự
can thiệp của Đức Thánh Cha, Teresa được phép vào dòng Kín năm tròn 16 tuổi để dâng
hiến trọn tuổi thanh xuân cho Vua Tình Yêu, Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Teresa thành Lisieux
là thánh nữ quan niệm THIÊN CHÚA như Người CHA đầy yêu thương trìu mến và vô cùng
sung sướng trước cả một cử chỉ bác ái dù nhỏ bé nhất. Thánh nữ Teresa Hài Đồng GIÊSU
luôn luôn đặt trọn niềm tin yêu phó thác nơi THIÊN CHÚA.
8/ Thánh nữ
Maria Goretti (1890-1902)
Maria Goretti là thánh nữ 12 tuổi người
Ý, vì cương quyết bảo vệ đức trong sạch mặc cho các đe dọa vũ phu của một người bạn
gia đình, đã bị giết chết cách tàn nhẫn. Dầu vậy, trước khi chết, thánh nữ Maria Goretti
đã bằng lòng tha thứ cho tên sát nhân. Nhờ tấm gương anh hùng của thánh nữ Maria Goretti,
tên sát nhân đã ăn năn thống hối và sống cuộc đời còn lại trong chay tịnh đền bù tội
lỗi.
9/ Thánh nữ Faustina Kowalska (1905-1938)
Sinh
ra và lớn lên tại Ba Lan, ngay từ nhỏ Faustina đã nghe tiếng Chúa kêu gọi. Năm 18
tuổi, Faustina xin phép cha mẹ vào dòng tu nhưng bị cha mẹ từ chối. Faustina xem đó
như là lý do không cần theo đuổi ơn gọi. Thế nhưng THIÊN CHÚA vẫn kiên trì trong tiếng
kêu mời. Một ngày, vào dịp lễ, Faustina được thị kiến trông thấy Chúa chịu đau đớn
cất tiếng hỏi: ”Cha phải theo đuổi con đến bao giờ và con còn xua đẩy Cha bao lâu
nữa?” Sau cùng, Faustina gia nhập dòng Đức Trinh Nữ MARIA Từ Bi.
Trong Dòng,
nữ tu Faustina được giao phó các công việc khiêm tốn như làm bếp, làm vườn và canh
cổng. Thế nhưng trong cuộc sống nhỏ bé thường nhật ấy, Chị Faustina không ngừng thưa
chuyện thân mật với Chúa và Đức Mẹ. Các cuộc nói chuyện được nữ tu tỉ mỉ ghi lại và
chỉ được phổ biến sau khi chết. Cuốn nhật ký mang tựa đề ”Lòng Nhân Hậu THIÊN CHÚA
trong tâm hồn tôi”. Faustina Kowalska là thánh nữ đầu tiên được tuyên phong trong
Năm Thánh 2000 khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba.
10/ Vị Tôi Tớ
Chúa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1920-2005)
Vị Quan
Thầy sau cùng của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ thứ XXIII diễn ra năm nay tại Sydney là vị
Tôi Tớ Chúa và là Người Cha Khai Sinh ra Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Đó là Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II. Ngài từng viếng thăm Australia 2 lần vào năm 1986 và 1995. Ngay cả
hôm nay nữa Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vẫn là suối nguồn gợi hứng cho thế hệ trẻ
nhân Ngày Quốc Tế Giới Trẻ 2008. Người Trẻ vẫn còn cảm thấy sự hiện diện và vẫn kêu
xin sự phù trợ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Người ta vẫn còn nhớ đến sự dấn
thân của ngài trong việc xóa bỏ chủ thuyết cộng sản và phần đóng góp của Ngài trong
việc biến đổi thế giới.