Đức Thánh Cha viếng thăm Hoa Kỳ: ngày 17 và 18-4-2008
Gặp các nạn nhân bị lạm dụng tính dục
Hôm thứ năm,
17-4-2008, ĐTC đã có một cuộc gặp gỡ ngoài chương trình với một nhóm các nạn nhân
bị LM lạm dụng tính dục và ngài cho biết Giáo Hội tiếp tục nỗ lực giúp hàn gắn các
vết thương do những hành động ấy gây ra.
LM Lombardi S.J, Giám đốc Phòng báo
chí Tòa Thánh cho biết: tại nhà nguyện riêng trong tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Washington,
ĐTC đã gặp 5 nạn nhân cả nam lẫn nữ do ĐHY Sean O'Malley, TGM giáo phận Boston, hướng
dẫn. Họ đã cầu nguyện với ĐTC, ngài lắng nghe mỗi người kể lại sự tích đau thương
họ đã phải chịu, khích lệ họ và cho biết ngài sẽ cầu nguyện cho họ, cho gia đình họ
cũng như cho tất cả các nạn nhân của những vụ lạm dụng tính dục”. Cuộc gặp gỡ kéo
dài khoảng 25 phút. Cha Lombardi cũng nói rằng đó là một cuộc gặp gỡ rất cảm động,
và một số người đã rơi lệ. ĐHY O'Malley đã trao cho ĐTC một cuốn sách liệt kê tên
của khoảng 1 ngàn nạn nhân bị lạm dụng tại tổng giáo phận Boston của ngài trong nhiều
thập niên qua, để ĐTC nhớ cầu nguyện cho họ.
Gặp giới giáo dục Công Giáo
Chiều
ngày 17-4-2007, ĐTC đã có hai cuộc gặp gỡ quan trọng: với giới giáo dục Công Giáo
tại Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ và với các vị lãnh đạo liên tôn tại Trung Tâm Văn Hóa
Gioan Phaolô 2.
Khi ĐTC đến khuôn viên đại học Công Giáo Hoa Kỳ lúc 6 giờ
chiều, hàng trăm sinh viên tụ tập tại đây đã reo hò chào đón ngài.
ĐTC đã
gặp 400 người gồm 200 giáo sư viện trưởng các Đại học và trường cao đẳng Công Giáo
ở Mỹ, và 200 vị đặc trách về các học đường Công Giáo thuộc các giáo phận toàn quốc
Hoa Kỳ. Cuộc gặp gỡ diễn ra tại hội trường và ĐTC ngồi trên chiếc ghế gỗ do chính
các sinh viên Công Giáo vẽ kiểu và thực hiện. Sau lời chào mừng của Đức Ông David
O'Connell, Viện trưởng Đại học Công Giáo Hoa Kỳ, ĐTC đã ngỏ lời với mọi người và tái
khẳng định vai trò quan trọng của nền giáo dục Công Giáo đối với gia đình, Giáo Hội
và xã hội. Ngài nói: ”Giáo dục là một phần sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Giáo
Hội, vì mỗi một cơ cấu giáo dục Công Giáo trước hết và trên hết là nơi giúp gặp gỡ
Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã mạc khải qua Đức Giêsu Kitô tình yêu và chân lý, trao
ban cho con người cuộc sống mới xinh đẹp, tốt lành và chân thật. Mặc khải của Thiên
Chúa cống hiến cho mọi thế hệ cơ may khám phá ra chân lý cuối cùng về cuộc sống của
con người và mục đích của lịch sử. Nhiệm vụ này không dễ dàng. Nó liên hệ tới toàn
cộng đoàn Kitô và động viên mọi thế hệ các nhà giáo dục Kitô bảo đảm làm sao để quyền
năng chân lý của Chúa thấm nhập mọi chiều kích các cơ cấu mà họ phục vụ.”
ĐTC gọi các giáo sư, giáo chức và nhà giáo dục Công Giáo là ”những người mang trong
mình sự khôn ngoan”, và ngài mời gọi suy tư về căn tính của các trường Công Giáo và
phần đóng góp của nó cho thiện ích của xã hội qua sứ mệnh đầu tiên của Giáo Hội là
loan báo Tin Mừng. Mọi hoạt động của Giáo Hội bắt nguồn từ Tin Mừng phát xuất từ chính
Thiên Chúa.
ĐTC kêu gọi bảo vệ căn tính Công Giáo của các cơ sở giáo dục của
Giáo Hội và nhấn mạnh rằng: ”căn tính của một đại học hay trường học công giáo không
tùy thuộc thống kê con số sinh viên học sinh Công Giáo, mà còn là vấn đề của sự xác
tín nữa: chấp nhận, hiểu biết và sống chân lý mạc khải, làm sao để niềm tin được lộ
hiện rõ ràng trong các cơ cấu giáo dục, được diễn tả ra qua phụng vụ, bí tích, lời
cầu nguyện, các việc bác ái và lo lắng cho công lý và tôn trọng thụ tạo... Cuộc khủng
hoảng chân lý ngày nay bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng lòng tin. Vì thế đã xảy ra nhiều
lệch lạc trong phương cách giáo dục: như chú ý quá nhiều đến trí thông minh mà quên
đào tạo ý chí, quan niệm méo mó về sự tự do. Tự do không phải là chọn lựa đi ra ngoài,
nhưng là chọn đi vào, chọn tham dự vào chính Đấng là Hiện Hữu. Do đó không thể đạt
tự do đích thật bằng cách xa rời Thiên Chúa. Các giáo chức phải khơi dậy nơi người
trẻ ước muốn có một cử chỉ của lòng tin và khích lệ họ dấn thận cho cuộc sống giáo
hội. Chính nơi đây sự tự do đạt cái chắc chắn của chân lý, Khi chọn lựa sống chân
lý đó là chúng ta có sự sống lòng tin tràn đầy được trao ban cho chúng ta trong Giáo
Hội... Các chân lý của lòng tin và của lý trí không bao giờ mâu thuẫn nhau.”
Gặp gỡ liên tôn
Liền đó, ĐTC đã đến Trung tâm Văn
hóa Gioan Phaolô 2 chỉ cách đó 1 cây số để gặp gỡ 200 vị lãnh đạo các tôn giáo khác
như Hồi giáo, đạo Jaina, Phật giáo, ấn giáo và Do thái giáo. Khi ngài vừa đến đây,
ĐHY Adam Maida, TGM giáo phận Detroit, là người đã có công rất nhiều trong việc khởi
xướng và thực hiện trung tâm Văn hóa này đã quì xuống hôn nhẫn của ĐTC.
Tại
hội trường Rotunda của trung tâm hai lầu này, ĐTC đã được vị giám đốc và Đức Cha Richard
Sklba, GM phụ tá giáo phận Milwaukee, Chủ tịch Ủy ban GM Hoa Kỳ về đại kết và liên
tôn tiếp đón và ngỏ lời chào mừng, trước sự hiện diện của các chức sắc các tôn giáo
theo phẩm phục cổ truyền của tôn giáo liên hệ.
Lên tiếng trong buổi gặp gỡ,
ĐTC đề cao truyền thống cộng tác giữa các tôn giáo trong nhiều lãnh vực cuộc sống
công cộng dọc dài lịch sử Hoa Kỳ như các buổi cầu nguyện liên tôn trong ngày lễ Tạ
Ơn, các sáng kiến hoạt động bác ái tông đồ và phục vụ công ích. Ngài khích lệ mọi
nhóm tôn giáo tại Hoa Kỳ tiếp tục duy trì truyền thống cộng tác cao qúy ấy, vì nó
khiến cho cuộc sống chung được phong phú với các giá trị tinh thần thúc xẩy hoạt động
của các tôn giáo.
Đề cập tới quyền tự do tôn giáo ĐTC nói: ”Nhiệm vụ duy trì
tự do tôn giáo không bao giờ hoàn tất. Có các hoàn cảnh và thách đố mới mời gọi các
công dân và giới lãnh đạo suy tư về việc làm thế nào để các quyết định của họ tôn
trọng quyền căn bản này của con người. Bảo vệ tự do tôn giáo trong khuôn khổ luật
lệ không bảo đảm cho các dân tộc, đặc biệt là các nhóm thiểu số, tránh được các hình
thức kỳ thị bất công và thành kiến. Điều này đỏi hỏi mt cố gắng liện tục từ phía mọi
thành phần xã hội để bảo đảm cho các công dân có cơ may thực hành việc thờ tự trong
an bình và thông truyền gia tài tôn giáo cho con cái họ.”
”Việc thông truyền
các gía trị tôn giáo cho các thế hệ tiếp nối không chỉ giúp duy trì một gia sản, nhưng
cũng nâng đỡ và dưỡng nuôi nền văn hóa chung quanh. Điều này cũng có giá trị đối với
cuộc đối thoại giữa các tôn giáo: người tham dự cũng như xã hội đều hưởng được sự
phong phú của nó.”
ĐTC cũng nêu bật trách nhiệm của giới lãnh đạo tôn giáo
trong nền giáo dục người trẻ. Phần đóng góp của các tôn giáo cho xã hội dân sự là
các trường học đào tạo trí tuệ, đức dục và tinh thần, dậy tôn trọng phẩm giá con người
và tôn trọng tín ngưỡng của nhau. Ngài cũng ca ngợi sáng kiến của nhiều chính quyền
bảo trợ các chương trình thăng tiến đối thoại liên tôn và liên văn hóa.
Sau
bài diễn văn của ĐTC, 5 thiếu niên đại diện cho 5 tôn giáo lớn đã tặng cho ĐTC 5 biểu
hiểu tượng trưng sự đóng góp của truyền thống tôn giáo liên hệ cho thế giới.
Viếng thăm Liên hợp quốc
Sáng sớm thứ
sáu 18-4-2008, ĐTC đã cử hành thánh lễ tại nhà nguyện tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở thủ
đô Washington, rồi ra phi trường căn cứ quân sự Andrews để đáp máy bay tới phi trường
thành phố New York cách đó 330 cây số, là chặng thứ hai và cũng là chặng chót trong
cuộc viếng thăm 6 ngày của ngài tại Hoa Kỳ.
Khi đến LHQ, ĐTC đã được ông Tổng
thư ký Ban Ki Moon và Chủ tịch Đại hội đồng LHQ Kerim Srgjan tiếp đón. Sau khi Hội
kiến riêng với Ông Tổng thư ký, ngài tiến ra hội trường Đại hội đồng giữa tiếng vỗ
tay chào mừng của các vị Đại Sứ và đại diện của các nước.
Diễn văn Trong
diễn văn trước đại hội đồng, ĐTC lần lượt đề cập đến vai trò của LHQ, sự cần thiết
phải có sự hoạt động đồng thuận để thăng tiến tình liên đới quốc tế, và cần có sự
phù hợp giữa khoa học và luân lý. Trong bối cảnh kỷ niệm 60 năm công bố Tuyên ngôn
quốc tế nhân quyền, ĐTC đặc biệt nhấn mạnh tới các quyền con người và nền tảng của
các quyền này ở nơi luật luân lý tự nhiên. Ngài không quên khai triển các chiều kích
của quyền tự do tôn giáo và kêu gọi hoàn toàn tôn trọng quyền này.
Trước tiên
về vai trò của LHQ, ĐTC nói: ”LHQ cụ thể hóa khát vọng ”có một tổ chức ở cấp độ cao,
có tầm mức quốc tế” (JPII, Sollicitudo rei socialis, 43), phải được soi sáng và hướng
dẫn do nguyên tắc phụ đới, và có khả năng đáp ứng các đòi hỏi của gia đình nhận loại,
nhờ những qui luật quốc tế hữu hiệu và thiết lập những cơ cấu có khả năng đảm bảo
sự diễn tiến hòa hợp trong đời sống thường nhật của các dân tộc. Điều này càng cần
thiết hơn trong bối cảnh hiện nay, qua đó người ta đang cảm nghiệm một sự nghịch lý
hiển nhiên: sự đồng thuận đa phương giữa các nước tiếp tục bị khủng hoảng vì nó còn
phải tùy thuộc những quyết định của một số nhỏ, trong khi những vấn đề của thế giới
đòi cộng đồng quốc tế phải có những cuộc can thiệp dưới hình thức những hoạt động
chung”.
”Thực vậy, những vấn đề an ninh, các đối tượng phát triển, giảm bớt
chênh lệch ở bình diện địa phương và thế giới, việc bảo vệ môi sinh, các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và khí hậu, đòi mọi vị hữu trách của đời sống thế giới phải hành
động có phối hợp với nhau, và sẵn sàng làm việc chân thành, trong niềm tôn trọng công
pháp, để thăng tiến tình liên đới tại những miền mong manh nhất thế giới. Tôi đặc
biệt nghĩ đến một số nước Phi châu và các đại lục khác vẫn còn ở ngoài lề sự phát
triển toàn diện đích thực, và có nguy cơ chỉ cảm nhận được những hậu quả tiêu cực
của sự hoàn cầu hóa. Trong bối cảnh các quan hệ quốc tế, cần phải nhìn nhận vai trò
hàng đầu của các qui luật và các cơ cấu, tự bản chất, nhắm thăng tiến công ích, và
bảo tồn tự do của con người. Những qui luật ấy không giới hạn tự do, trái lại chúng
thăng tiến tự do khi cấm những thái độ và hành động đi ngược công ích, cản trở sự
thực thi hữu hiệu tự do và vì thế làm thương tổn phẩm giá của mọi người. Nhân danh
tự do, cần phải có một sự tương quan giữa quyền lợi và nghĩa vụ.. Ở đây chúng tôi
nghĩ đến cách thức sử dụng những tiến bộ của kỹ thuật. Tuy những tiến bộ ấy có thể
mang lại ích lợi lớn lao cho nhân loại, nhưng một số ứng dụng của chúng là một sự
vi phạm tỏ tưởng trật tự tự nhiên, đến độ không những chúng trái ngược đặc tính thánh
thiêng của sự sống, nhưng còn tước đoạt căn tính tự nhiên của con người và của gia
đình... Vấn đề là không bao giờ phải chọn lựa giữa khoa học và luân lý, nhưng đúng
hơn là chấp nhận một phương pháp khoa học thực sự tôn trọng các qui luật của luân
lý đạo đức”.
Bảo vệ dân chúng
ĐTC nói đến
nghĩa vụ của mọi Quốc gia trong việc bảo vệ dân chúng của mình chống lại những vi
phạm trầm trọng và tái diễn đối với các quyền con người, cũng như những hậu quả của
các cuộc khủng hoảng nhân đạo vì những thiên tai do hoạt động của con người gây nên:
”Nếu các quốc gia không có khả năng thực hiện sự bảo vệ ấy, thì cộng đồng quốc tế
có nghĩa vụ phải can thiệp với những phương thế mà Hiến chương của LHQ và các văn
kiện công pháp quốc tế đã dự trù, theo mức độ hoạt động ấy tôn trọng các nguyên tắc
của trật tự quốc tế, thì nó không thể bị giải thích như một sự cưỡng bách bất công,
hoặc một sự giới hạn chủ quyền quốc gia. Trái lại, chính sự dửng dưng hoặc không can
thiệp mới là điều gây thiệt hại đích thực”.
ĐTC cũng nhắc đến biến cố kỷ niệm
60 năm Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. Văn kiện này là kết quả một sự đồng qui của
các truyền thống văn hóa và tôn giáo khác nhau, tất cả đều muốn đặt con người ở trung
tâm các tổ chức, các luật lệ và hoạt động của xã hội, và coi nhân vị con người như
điều thiết yếu đối với thế giới văn hóa, tôn giáo và khoa học. ..Các quyền được nhìn
nhận và trình bày trong bản Tuyên ngôn được áp dụng cho tất cả mọi người, vì nguồn
gốc chung của con người, vốn là điểm nòng cốt trong ý định sáng tạo của Thiên Chúa
đối với thế giới và lịch sự. Các quyền ấy có nền tảng nơi luật tự nhiên được ghi khắc
trong tâm hồn con người và hiện diện trong các nền văn hóa và văn minh khách nhau.
Tách rời các quyền con người ra khỏi bối cảnh ấy có nghĩa là thu hẹp phạm vi của nó
và chiều theo một quan niệm duy tương đối, cho rằng ý nghĩa và sự giải thích các quyền
con người có thể thay đổi, và đặc tính phổ quát của các quyền ấy có thể bị phủ nhận
nhân danh những quan niệm khác nhau về văn hóa, chính trị, xã hội và cả tôn giáo nữa.
ĐTC xác quyết rằng việc thăng tiến các quyền con người vẫn là một chiến lược hữu hiệu
nhất để lấp đầy hố chênh lệch giữa các nước và các nhóm xã hội, và để củng cố an ninh.
Thực vậy, nạn nhân của lầm than và tuyệt vọng, khi phẩm giá của họ bị người ta chà
đạp và những thủ phạm như thế không bị trừng phạt, họ dễ trở thành mồi cho những kẻ
chủ trương dùng bạo lực và trở thành những người phá hủy hòa bình”.
Đề cập
đến tự do tôn giáo, ĐTC khẳng định rằng: ”Dĩ nhiên các quyền con người cũng phải
bao gồm cả quyền tự do tôn giáo, được hiểu như một sự diễn tả chiều kích vừa cá nhân
và cộng đoàn, viễn tượng này phải làm nổi bật sự đơn nhất của con người, đồng thời
phân biệt rõ ràng giữa chiều kích công dân và chiều kích tín hữu... Vì thế, không
thể tưởng tượng được các công dân phải chịu mất một phần của mình, tức là niềm tin
của họ, để trở thành những công dân tích cực. Không bao giờ cần phải chối bỏ Thiên
Chúa để được hưởng các quyền của mình. Nhất là cần phải bảo vệ các quyền liên quan
đến tôn giáo, nếu chúng bị coi như đối nghịch với một ý thức hệ thế tục đang thịnh
hành hoặc những lập trường tôn giáo của đa số có tính chất loại trừ tôn giáo khác.
Sự bảo đảm hoàn toàn tự do tôn giáo không thể bị thu hẹp vào việc tự do làm việc thờ
phượng, nhưng còn phải để ý đến chiều kích công cộng của tôn giáo và làm sao để các
tín hữu có thể tham gia vào việc xây dựng trật tự xã hội. Hiện nay họ thực sự thi
hành điều đó, ví dụ qua sự dấn thân hữu hiệu và quảng đại trong một hệ thống rộng
lớn các sáng kiến, từ các đại học, các học viện khoa học và trường học, cho đến các
cơ cấu thăng tiến sức khỏe các các tổ chức bác ái, phục vụ những người nghèo khổ nhất
và những người bị bỏ rơi. Từ chối nhìn nhận sự đóng góp cho xã hội ăn rễ nơi chiều
kích tôn giáo và trong sự tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối, có nghĩa là dành ưu tiên cho thái
độ cá nhân chủ nghĩa và như thế là làm băng hoại sự đơn nhất của con người.
Và ĐTC kết luận rằng: ”Sự hiện diện của tôi giữa Đại hội đồng này là dấu chỉ nói lên
lòng quí chuộng của tôi đối với LHQ và bày tỏ mong ước rằng tổ chức này ngày càng
có thể là dấu chỉ đoàn kết giữa các quốc gia và là một dụng cụ phục vụ toàn thể gia
đình nhân loại. Sự hiện diện này cũng biểu lộ ý chí của Giáo Hội Công Giáo đóng góp
vào những quan hệ quốc tế, làm sao để mọi người và toàn thể các dân tộc cảm thấy tầm
quan trọng của họ. LHQ tiếp tục là một nơi ưu tiên trong đó Giáo Hội cố gắng chia
sẻ kinh nghiệm của mình về tình người, vốn đã được chín mùi qua bao thế kỷ giữa cac
dân tộc thuộc mọi chủng tộc và văn hóa, và dành kinh nghiệm ấy cho mọi thành phần
của cộng đồng quốc tế. Kinh nghiệm và hoạt động ấy, nhắm đạt được tự do cho mọi tín
hữu và cũng nỗ lực làm cho các quyền của con người được bảo vệ một cách hữu hiệu hơn.”
Sau bài diễn văn trên đây, ĐTC còn hội kiến riêng với ông chủ tịch Đại hội đồng LHQ,
Chủ tịch Hội đồng bảo an, và ngài gặp 60 quan chức của LHQ. Trong dịp này, ĐTC đánh
giá cao hoạt động của các quan chức và nhân viên tổ chức quốc tế này, cũng như nhắc
đến nhiều nhân viên LHQ đã hy sinh trong khi thi hành sứ mạng, kể các các binh sĩ
bảo hòa. Chẳng hạn, nguyên trong năm 2007 đã có 42 người hy sinh trong chiều hướng
đó.
Rời LHQ, ĐTC đã về trụ sở Phái Bộ quan sát thường trực của Tòa Thánh cạnh
LHQ để dùng bữa vào lúc 2 giờ chiều.
Lúc quá 5 giờ chiều, ngài đã hoạt động
trở lại, và viếng thăm Hội đường Do thái Công viên Phía Đông, chỉ cách trụ sở phái
bộ Tòa Thánh nửa cây số. Sau đó, ngài đến Nhà thờ thánh Giuse ở khu vực Manhattan
để chủ sự cuộc gặp gỡ đại kết dưới hình thức một buổi phụng vụ Lời Chúa với 250 đại
diện của 10 cộng đồng Kitô.