Một số nhận định của Đức Ông Pierangelo Sequeri, thần học gia giáo sư phân khoa Thần
Học Milano, về thông điệp ”Spe salvi” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Sau thông
điệp ”Deus caritas est - Thiên Chúa là Tình Yêu”, ngày 30-11-2007 Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI đã công bố thông điệp ”Spe salvi - Trong niềm hy vọng chúng ta đã được cứu
độ”.
Thông điệp ”Enciclica” trong tiếng La tinh và ”enkyklosis” trong tiếng
Hy lạp là ”thư luân lưu” gửi cho Giáo Hội trên toàn thế giới. Từ này được dùng lần
đầu tiên bởi Đức Giáo Hoàng Biển Đức XIV, để gọi tài liệu đầu tiên triều đại của người
công bố ngày mùng 3 tháng 12 năm 1740 và được định nghĩa là ”Epistola encyclica (et
commonitoria)”. Theo thói quen của Giáo Hội đề tựa của thông điệp bao giờ cũng gồm
hai từ đầu tiên của văn bản tiếng Latinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo Hội. Thông
điệp đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XIV mang tựa đề ”Ubi primum”, bàn về chức
thừa tác của giám mục và cách thức thi hành chức thừa tác đó. Các Giáo Hội Kitô khác
cũng có các thông điệp. Anh giáo gọi đó là các thư luân lưu của Đức Giáo Chủ; trong
các Giáo Hội Đông Phương đó là các thư luân lưu Đức Thượng Phụ gửi tín hữu thuộc quyền
Tòa Thượng Phụ của mình. Theo các thống kê thông điệp ”Spe salvi” Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI mới công bố là thông điệp thứ 295 kể từ thông điệp đầu tiên của Đức Giáo Hoàng
Biển Đức XIV.
Trong phần đầu của thông điệp ”Spe salvi”, Đức Thánh Cha khẳng
định rằng theo đức tin Kitô, ơn cứu độ không chỉ là một sự kiện, nhưng còn là niềm
hy vọng đáng tin cậy dẫn đưa tới một mục tiêu lớn lao, giúp tín hữu đương đầu với
hiện tại, cho dù nó có khó khăn cơ cực tới đâu đi nữa. Yếu tố khiến cho tín hữu Kitô
khác biệt đó là họ biết rằng mình có một tương lai và cuộc đời họ không chấm dứt trong
hư vô. Sứ điệp Kitô không chỉ có tính cách ”thông tin”, nhưng còn có tính chất ”biến
đổi”, hình thành. Nghĩa là Tin Mừng không chỉ là một sự thông báo cho biết một sự
việc, nhưng là một sự thông truyền tạo nên những sự kiện và thay đổi cuộc sống con
người. Ai có hy vọng thì sống một cuộc sống mới.
Như thế, đón nhận hy vọng
là đạt tới chỗ nhận biết Thiên Chúa đích thực. Chúa Giêsu không đem đến ”một sứ điệp
cách mạng xã hội” và ”không phải là người chiến đấu để đạt tới sự giải phóng chính
trị”. Ngài mang lại một cái gì hoàn toàn khác biệt: đó là cuộc găp gỡ với Thiên Chúa
hằng sống, cuộc găp gỡ với một niềm hy vọng mạnh mẽ hơn những đau khổ của chế độ nô
lệ và vì thế đã biến đổi cuộc sống và thế giới từ bên trong, cho dù các cơ cấu bề
ngoài vẫn y nguyên.
Chúa Giêsu hiện thân tình yêu thương của Thiên Chúa nói
với chúng ta trong thực tế con người là ai và con người phải làm gì để thực sự là
người. Chúa Giêsu cũng là tôn sư sự sống, vì Người chỉ cho chúng thấy con đường vượt
xa hơn cái chết. Người đem lại cho chúng ta niềm hy vọng đồng thời là sự chờ đợi và
hiện diện, vì sự kiện tương lai hiện hữu có sức thay đổi hiện tại. Qua đức tin tương
lai được thu hút vào bên trong hiện tại, khiến cho tín hữu cảm nghiệm được tương lai
ấy. Điều này tạo ra sự chắc chắn, và là bằng chứng cho những điều tín hữu chưa thấy.
Chính niềm hy vọng ấy giúp các tín hữu Kitô đương đầu với các cuộc bách hại và tử
đạo, chống lại ”cường lực của ý thức hệ và các cơ quan tuyên truyền của chúng” và
làm cho tín hữu có khả năng canh tân thế giới...
Đã có nhiều phản ứng từ các
giới thần học, triết học, khoa học và các học giả. Sau đây là một số nhận định của
Đức ông Pierangelo Sequeri, thần học gia, giáo sư phân khoa Thần Học Milano, bắc Italia,
về thông điệp mới này của Đức Thánh Cha.
Hỏi: Thưa Đức
Ông, khi đề cập tới tương quan giữa lòng tin và niềm hy vọng,
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã trích một
đoạn của thư gửi tín hữu Do thái. ”Lòng tin là bản chất
các điều chúng ta hy vọng”. Nó có nghĩa là gì? Đáp:
Ở đây Đức Thánh Cha nhắc lại một đàng là lập trường của những người trông thấy trong
câu này khẳng định của một lòng tin dựa trên sự chắc chắn, đàng khác là lập trường
của những người - và ở đây Đức Thánh Cha trích tư tưởng của Luther - đã coi đó như
là một ý niệm thuộc loại hiện sinh, hướng tới chỗ chiếm được sự chắc chắn hoàn toàn
chủ quan. Đức Thánh Cha nhắc lại rằng kiểu giải thích thứ nhất thiếu việc nhận ra
nền tảng là Chúa: lòng tin không phải là một ý niệm trừu tượng, mà là một kinh nghiệm
hiệp thông với nền tảng của nó. Đối với kiểu giải thích thứ hai, tuy việc nhắc tới
chiều kích hiện sinh có giá trị, nhưng lòng tin không chỉ là ”xác tín của con người”,
mà là kinh nghiệm rộng mở cho cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Một cuộc đối thoại đã
là kinh nghiệm của cuộc sống vĩnh cửu.
Hỏi: Nhưng mà cuộc
sống vĩnh cửu là gì thưa Đức Ông?
Đáp: Đức Thánh
Cha đã đề nghị một kiểu phê bình hay đẹp về tư tưởng của ”sự vĩnh cửu” quên đi sự
sống. Sự ổn định bằng ”cẩm thạch lạnh lùng” của ý niệm, như thế, được hòa giải với
một kinh nghiệm sâu xa về ”tương quan”: chính trong tương quan với Thiên Chúa mà chúng
ta xây dựng sự chắc chắn số phận cuối cùng của mình. Vì thế nên chỉ nhấn mạnh đến
sự vĩnh cửu thôi không đủ, cần phải nhắc đến chiều kích sinh động của tương quan với
sự tuyệt đối nữa. Ước mong cuộc sống vĩnh cửu, như vậy, không phải là một sự ”sống
sót bất tận”, mà là một cuộc sống tương quan đích thật và riêng tư, vẫn tiếp tục sau
cái chết.
Hỏi: Trong phần cuối cùng của thông điệp
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đề cập tới cái chết,
sự phán xét, hỏa ngục và thiên đàng. Chúng có các đặc thái nào?
Đáp: Như tôi đã nói trên đây, trong nền tảng có ý niệm về ”sự sống vĩnh cửu” không
được hiểu trong nghĩa ”lượng”, tức như là ”sự kéo dài bất tận”. Nó là một ”cuộc sống
trong tương quan”, một cuộc sống hạnh phúc vì ”tràn đầy các tương quan”, theo một
ý niệm tập thể về hạnh phúc và theo những gì được mô tả trong Tân Ước. Đây là chìa
khóa giúp hiểu biết những gì còn lại: trong diễn văn ở đây cũng có các ý niệm về sự
tự do và tinh thần trách nhiệm, là những chiều kích được chỉ định để bước qua ngưỡng
cửa của sự ”Phán xét”. Sự phán xét này không phải là cuộc tính sổ, mà là thừa nhận
giá trị ”đã được tích trữ” trong lăng kính của tương quan, của sự chú ý săn sóc nhau,
của việc đầu tư sự tự do của mình. Đó là các nội dung mà Thiên Cháu có thể tiếp nhận,
và qua việc phán xử, Người giải thoát tất cả mọi thứ khác khỏi các cáu bẩn và các
cặn bã của chúng.
Hỏi: Tại sao Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI lại nhấn mạnh trên ý niệm ”đoàn ngũ” như vậy?
Đáp: Có lẽ vì ngày nay sự siêu việt thường bị giản lược vào chiều kích cá nhân,
cả trong việc giảng dậy. Nhưng Đức Thánh Cha nói cho chúng ta biết rằng trong số phận
của sự siêu việt cá nhân cũng có khung của các tương quan, trong đó tính cách cá nhân
được tháp nhập vào và nó không kết thúc trong ”kinh thành trần thế”.
Hỏi:
Như thế Đức Thánh Cha đã chỉ cho thấy con
đường nào thưa Đức Ông?
Đáp: Đó là con đường
tiến lên, kể cả trên bình diện văn hóa từ phía Kitô giáo, con đường của số phận siêu
việt của con người, là sinh vật không thể bị giản lược vào bình diện sinh học, chính
trị và xã hội mà thôi.
Hỏi: Thưa Đức Ông, tại sao
Đức Thánh Cha lại đối chọi tư tưởng của sự tiến
bộ với sự phán xử của Thiên Chúa?
Đáp: Đây là một gạt bỏ có tính
cách phẩm chất. Tư tưởng về sự tiến bộ là một tư tưởng hướng tới chỗ tuyệt đỉnh và
tạo ra các ”nạn nhân”, trái lại sự phán xử của Thiên Chúa mở ra một khả thể ”thành
công”, tại nơi chúng ta chỉ trông thấy các thất bại. Trong việc phán xử, khi đưa ra
các tiêu chuẩn khác nữa của việc lượng định giá trị cuộc sống con người, Thiên Chúa
phục hồi các mâu thuẫn, mà sự tiến bộ có khuynh hướng loại trừ. Chính vì thế Kitô
giáo ”đánh cá” liên quan tới cả các nạn nhân của ”sự chiến thắng tiến lên” của chúng
ta trong lịch sử nữa. Và công lý là ở đây.
Hỏi: Như vậy là
có một ”cuộc sống bên kia” với các tương quan. Vậy tại sao Đức
Thánh Cha lại nói rằng: với cái chết việc lựa chọn sự sống trở thành vĩnh viễn
thưa Đức Ông?
Đáp: Giữa việc tạo dựng và số phận của con
người, giữa nguồn gốc và cứu cánh, cuộc sống trần gian có thể được coi như là một
sự khởi đầu, trong đó chúng ta diễn tả kiểu cách chúng ta chấp nhận hay không chấp
nhận số phận sự hiện hữu: chúng ta sẽ được phán xử dựa trên sự lựa chọn nền tảng này.
Hỏi: Thưa Đức Ông tại sao Đức Thánh Cha lại không gắn
liền hỏa ngục với một nơi chốn, mà lại gắn liền nó với các cá nhân?
Đáp: Bởi vì ”hỏa ngục” là điều kiện của người đã chỉ lựa chọn chính mình, họ ”bị
đóng chặt” vào sự đồng hành của chính họ. Một điều kiện dựa trên sự khước từ tương
quan, tương quan với Thiên Chúa và tương quan với tha nhân.