Trong tiếng Việt, mùa phụng vụ vừa mới bắt đầu mang tên là mùa “Vọng”.
“Vọng” có nghĩa là trông đợi, mong chờ. Trong tiếng
latinh, tên gọi là “Adventus” có nghĩa là đến:
phụng vụ cử hành việc Chúa đến trần thế qua mầu nhiệm Nhập Thể,
và đợi chờ Chúa đến trong vinh quang để hoàn tất
lịch sử cứu độ. Do đó, tâm tình của mùa phụng vụ
này được diễn tả rất đúng qua thuật ngữ “mùa Vọng”. Đặc
biệt năm nay, đức thánh cha đã muốn trao cho cộng
đoàn Dân Chúa một bản văn để suy niệm, đó là thông điệp
“Spe salvi” được công bố hôm thứ sáu vừa rồi. Đề tài của
thông điệp được chính ngài giới thiệu trong bài giảng Kinh chiều
thứ bảy vừa qua tại đền thánh Phêrô, và được lặp lại hai
lần vào chúa nhật hôm qua: trước hết, trong thánh lễ cử hành lúc 9 giờ
sáng tại một bệnh viện dành cho các bệnh nhân được điều
trị sau khi thoát cơn hôn mê; và kế đó vào lúc đọc kinh
Truyền tin tại quảng trường thánh Phêrô lúc 12 giờ trưa. Chúng
tôi xin kính mời quý vị theo dõi bài huấn dụ dẫn vào kinh kính Đức
Mẹ.
Anh chị em thân mến
Với chúa nhựt thứ nhất mùa Vọng hôm nay,
bắt đầu một năm phụng vụ mới: dân Chúa lại bắt đầu lên đường, để sống mầu nhiệm của
Chúa Kitô trong lịch sử. “Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một” (xc Dt
13,8), nhưng lịch sử thì biến chuyển và không ngừng cần được Phúc-âm-hoá, cần được
đổi mới ngay từ nội tại. Sự mới mẻ đích thực duy nhất là Chúa Kitô: Người là sự viên
mãn của lịch sử, là tương lai huy hoàng của con người và của lịch sử. Khi sống lại
từ cõi chết, Đức Kitô là Chủ tể được Thiên Chúa giao cho việc khuất phục tất cả mọi
địch thủ, kể cả Tử thân (xc 1Cr 15,25-28). Do đó muà Vọng là thời thuận tiện để gợi
lên trong tâm hồn chúng ta niềm mong đợi Đấng “đang có, đã có và sẽ đến (Kh 1,8).
Con Thiên Chúa đã đến Bêlem cách đây 20 thế kỷ, Người đang đến vào mọi giây phút trong
linh hồn và trong cộng đoàn nào sẵn sàng đón tiếp, Người sẽ đến vào cuối thời gian
để “phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Vì thế người tín hữu luôn luôn tỉnh thức, được nuôi
dưỡng bởi niềm hy vọng thiết tha được gặp gỡ Chúa, như thánh vịnh 129 đã viết: “Mong
đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi /, cậy trông ở lời Người. Hồn tôi trông chờ Chúa,
hơn lính canh mong đợi hừng đông” (Tv 129, 5-6).
Bởi vậy, chúa nhật hôm nay
thật là đúng lúc để cống hiến cho toàn thể Giáo hội và cho tất cả những người thiện
chí bức thông điệp thứ hai của tôi, dành cho đề tài niềm hy vọng Kitô giáo, mang
tựa đề là Spe salvi, bởi vì mở đầu bằng những lời của thánh Phaolô: “Spe salvi
facti sumus – chúng ta được cứu độ nhờ lòng hy vọng” (Rm 8,24). Trong đoạn văn này
cũng như trong những chỗ khác trong Tân ước, từ “hy vọng” liên hệ chặt chẽ với từ
“tin”. Đó là một hồng ân làm thay đổi cuộc đời của kẻ lãnh nhận nó, như kinh nghiệm
của bao nhiêu vị thánh đã chứng tỏ. Thử hỏi: lòng hy vọng đó hệ tại điều gì, lòng
hy vọng vừa vĩ đại vừa đáng tin đến nỗi chúng ta có thể nói được rằng mình được cứu
độ nhờ nó? Xin thưa là cốt yếu hệ tại việc nhận biết Thiên Chúa, khám phá ra trái
tim của một vị Cha tốt lành và khoan nhân. Với cái chết trên thập giá và cuộc phục
sinh, đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta khuôn mặt của Thiên Chúa, một Thiên Chúa
có tình thương vĩ đại đến nỗi đã thông ban cho chúng ta niềm hy vọng không thể lay
chuyển, đến nỗi cái chết cũng không làm sứt mẻ, bởi vì sự sống của kẻ nào tín thác
vào người Cha ấy sẽ mở rộng đến viễn ảnh của hạnh phúc bất diệt.
Khoa học cận
đại càng ngày càng muốn đẩy lui đức tin và hy vọng vào lãnh vực tư riêng và cá nhân;
như thế lại cho thấy rõ ràng là ngày nay con người và thế gian đang cần đến Thiên
Chúa – thứ Thiên Chúa chân thật – nếu không thì sẽ mất hy vọng. Khoa học đã góp phần
rất lớn vào việc thăng tiến nhân loại, nhưng khoa học không có khả năng cứu chuộc
nhân loại. Nhân loại được cứu chuộc nhờ tình thương có sức làm cho cuộc sống của
cá nhân và xã hội nên tốt hơn và đẹp hơn. Niềm hy vọng cao cả, sung mãn, và vĩnh viễn
được bảo đảm bởi Thiên Chúa, Đấng đã đến viếng thăm chúng ta, đã ban sự sống cho chúng
ta trong đức Giêsu, và sẽ trở lại vào lúc kết thúc thời gian. Chúng ta hy vọng trong
đức Kitô, chúng ta trông mong đức Kitô. Cùng với Mẹ Maria, Hội thánh đến gặp gỡ hôn
phu của mình, gặp gỡ bằng những công việc tình yêu, bởi vì lòng hy vọng cũng như niềm
tin, được chứng tỏ trong yêu thương. Chúc cho hết mọi người một mùa Vọng thánh thiện.
Vào
lúc 9 giờ sáng, Đức Thánh Cha đã đến thăm viếng một bệnh viện ở mạn nam thành phố,
do hội hiệp sĩ Malta điều khiển. Đây là một tổ chức độc đáo trong lịch sử Giáo hội.
Ra đời cách đây 960 năm tại Giêrusalem như là một dòng tu giáo dân để bảo vệ các tín
hữu hành hương, dần dần họ thêm sứ mạng quân sự để bảo vệ các nơi thánh trước sự xâm
chiếm của Hồi giáo. Họ ra buộc dời căn cứ sang đảo Rhodes, và đảo Malta. Ngày nay
họ được coi như một tổ chức từ thiện quốc tế (tựa như Hội chữthập đỏ), nhưng với một
quy chế ngoại giao như một quốc gia. Ngoài một số thành viên tu sĩ, đa số phần tử
(12 ngàn) phục vụ các người nghèo trong các bệnh viện, trong 120 quốc gia trên thế
giới, với sự hợp tác của 13 ngàn nhân viên y tế. Bệnh viện tháng Gioan Tẩy giả mà
đức thánh cha viếng thăm mới được mở ra cách đây 35 năm, chuyên về việc điều trị dành
cho các bệnh nhân hồi phục sau cơn hôn mê gây ra bởi tai biến cơ tim hoặc não bộ
sau tai nạn lưu thông. Việc trị liệu không chỉ giới hạn vào các chức năng thần kinh
nhưng còn đòi hỏi những trị liệu tâm lý nhằm gây lại niềm tin tưởng cho các bệnh nhân
để tiếp xúc với xã hội.
Tham dự thánh lễ có khoảng 350 tín hữu, trong đó có
nhiều bệnh nhân ngồi trên xe lăn, bên cạnh thân nhân và các nhân viên y tế. Đức thánh
cha đã dành phần lớn bài giảng để nói về niềm hy vọng, đề tài của thông điệp vừa ban
hành. Ngài nói: “Chúng ta cần có hy vọng, dù lớn lao hay bé nhỏ, để nâng đỡ ta trên
đường đời. Nhưng nếu không có niềm hy vọng lớn lao, thì những hy vọng bé nhỏ không
tồn tại nổi. Niềm hy vọng lớn lao chỉ có thể là Thiên Chúa, Đấng bao trùm toàn thể
vũ trụ, và duy chỉ có Ngài mới có thể đề nghị và trao tặng cho chúng ta những điều
mà tự sức mình, chúng ta không thể nào đạt được. Nhờ lòng hy vọng bền bỉ đó chúng
ta có thể đương đầu với hiện tại, lắm lần vất vả.
Hướng về các bệnh nhân, đức
Bênêđictô XVI cam đoan rằng ngài cầu nguyện cho họ hằng ngày, và mời gọi họ cũng như
thân nhân hãy tìm nơi Chúa Giêsu sự trợ lực nâng đỡ để không mất niềm tin tưởng. Ngài
nói tiếp: “Trong cơn thử thách và bệnh hoạn, Thiên Chúa đến viếng thăm chúng ta cách
huyền nhiệm, và nếu chúng ta phó thác cho thánh ý Chúa thì chúng ta có thể cảm nhận
được quyền năng của lòng Chúa thương yêu. Các bệnh viện, nơi trọ của những người
bị thử thách bởi đau khổ, có thể trở nên những chỗ ưu tiên để làm chứng tình thương
Kitô giáo, nuôi dưỡng cho niềm hy vọng, và gợi lên những kế hoạch liên đới”.