Từ đầu năm nay - 2007 - Cha Tullio Pastorelli làm việc mục vụ tại Copiapó,
thành phố nằm về mạn Bắc nước Chilê, mất hút trong sa mạc Atacama. Sa mạc khô cằn
nóng bức nhất thế giới. Cha ghi lại cảm tưởng đầu tiên và cách thức hội nhập vào môi
trường xã hội cũng như làm quen với người dân như sau.
Thời gian đầu của vị
thừa sai nơi cánh đồng truyền giáo phải nói là cuộc tái sinh. Tái sinh trong ngôn
ngữ. Thật thế, từ mấy tháng qua tôi không làm gì khác ngoài việc học tiếng Tây-ban-nha.
Việc học mang lại kết khả quả quan vì tôi có thể cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Tây-ban-nha.
Ngoài ra tôi giống như một chú bé, mở to mắt nhìn và quan sát chung quanh. Đặc biệt,
tôi chú ý đến việc tiếp xúc với dân chúng. Họ thật đơn sơ, nhậy cảm và nghèo thật
nghèo. Trình độ văn hóa của người dân thật thấp. Đa số giới trẻ chỉ học xong bậc tiểu
học.
Tiếp đến, tôi thấy rõ mình phải khước từ mọi cách thức suy tư theo kiểu
Tây phương, hay nói rõ hơn, theo kiểu người Ý, để có thể khám phá ra và đi vào não
trạng mới. Rồi lại có rất nhiều khác biệt. Bắt đầu với khí hậu và thức ăn. Khí hậu
thật nóng. Thức ăn thì có thể quen từ từ. Sau cùng là cách thức sử dụng thời giờ.
Người dân Chi-lê thủng-tha thủng-thỉnh, đủng-đa đủng-đỉnh không vội vã gì cả! Họ luôn
luôn đi trễ, không bao giờ đến đúng giờ. Tôi phải chấp nhận như thế và nghĩ tới lời
THIÊN CHÚA phán cùng tổ phụ Abraham rằng: ”Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi,
mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (Sáng Thế 12,1).
Đối với riêng tôi, thời
gian khởi đầu công cuộc hội nhập văn hóa của nhà thừa sai thật phong phú và hữu ích.
Tôi phải đi vào cánh đồng truyền giáo với thái độ trang trọng. Đây là phương thức
đúng đắn nhất để đến gần, để tiếp xúc và yêu thương một dân tộc mà tôi được gởi đến,
được sai đi truyền giáo. Tôi phải kính trọng mọi tập tục đã có và không ép buộc ai
thay đổi hoặc đi theo cách thức suy tư và hành động của tôi. Trái lại, sự hiện diện
của vị Linh Mục thừa sai là sự hiện diện kín đáo, tế nhị và đầy tràn tình thương.
Ngôn ngữ của vị thừa sai là ngôn ngữ đại đồng, nghĩa là ngôn ngữ của Phúc Âm, của
Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ: Đấng Cứu Độ loài người và toàn thế giới. Tôi nhớ
lời Đức Chúa GIÊSU KITÔ nhắn nhủ: ”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập
giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất
mạng sống mình vì Thầy và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế
giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?” (Máccô 8,34-36).
Xứ
sở và đất nước Chilê thật đẹp, thật giàu có về tài nguyên thiên nhiên. Nhưng người
dân Chilê thì lại rất nghèo, vì phải chịu nhiều đau khổ, bị đàn áp bóc lột và bị bỏ
rơi. Trong bối cảnh ấy, vị thừa sai cố gắng san sẻ với thực tại trần thế của người
dân địa phương.
Ngoài ra, trong cuộc sống truyền giáo, vị Linh Mục thừa sai
không bao giờ cô đơn. Tại Chilê, tôi có cộng đoàn anh em Phan-Sinh Viện-Tu. Anh em
tiếp rước tôi thật thân tình và ân cần giúp đỡ trong bước chập chững ban đầu. Trong
khi người dân Chilê đơn sơ, khiêm tốn đã vui vẻ tiếp nhận tôi ngay. Mặc dầu chưa quen
biết vị thừa sai ngoại quốc, họ cũng vui vẻ chào hỏi như thể đã quen lâu rồi.
Thêm vào đó, tôi được sự hỗ trợ thiêng liêng đến từ quê hương đất nước Ý thân yêu.
Gia đình, bạn hữu và nhiều nhiều người khác, tháp tùng tôi nơi cánh đồng truyền giáo
xa xôi với lời cầu nguyện cũng như với tâm tình yêu thương trìu mến.
Tôi xin
kết thúc chứng từ của một thừa sai viết từ xứ sở truyền giáo với chính lời lẽ của
thánh Phanxicô thành Assisi.
”Nơi đâu có tình yêu và khôn ngoan,
nơi đó không có sợ hãi và dốt nát. Nơi đâu có nhẫn nhục và khiêm
hạ, nơi đó không có tức giận và xao xuyến. Nơi đâu có khó nghèo
sống trong niềm vui, nơi đó không có thèm khát vô độ hay keo
kiệt. Nơi đâu có yên tĩnh và nguyện gẫm, nơi đó không có âu lo
cũng không hề phung phí. Nơi đâu có lòng kính sợ THIÊN CHÚA săn
sóc cửa nhà thì nơi đó kẻ thù không tìm được lối
vào nhà. Nơi đâu có từ bi nhân hậu và chừng mực kín đáo thì nơi
đó không có chỗ cho kiêu căng và cứng cỏi khắc nghiệt”.
(”Il Missionario Francescano”, Mensile di carattere religioso-missionario dell'Ordine
dei Frati Minori Conventuali, n.5 / 2007, trang 20-21)