Ngày 1-4-1993, bộ Giáo Sĩ mở cuộc họp báo tại phòng báo chí Tòa Thánh để giới thiệu
cuốn: ”Solo per Amore: riflessioni sul celibato sacerdotale - Chỉ vì Tình Yêu:
suy tư về độc thân Linh Mục”.
Đó là tập tuyển
chọn bài của các nhân vật tên tuổi về các khía cạnh Kinh Thánh, thần học, mục vụ,
tâm lý và lịch sử của sự độc thân Linh Mục. Trong số các nhân vật tên tuổi, nổi bật
chứng từ của Đức Cha Đaminh Đặng Dĩ Minh, Tổng Giám Mục
Quảng Châu, Trung Quốc.
Đức Cha Đặng sinh trưởng tại HongKong và thuộc dòng
Tên. Ngày 1-10-1950, Đức Thánh Cha Pio XII (1939-1958) đặt ngài làm Giám Quản Tông
Tòa giáo phận Quảng Châu. 8 năm sau, ngày 5-2-1958, Đức Cha Đặng bị bắt và bị giam
tù trong vòng 22 năm. Tháng 6 năm 1980, Đức Cha Đặng được trả tự do, và năm sau, ngài
được Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II (1978-2005) nâng lên hàng Tổng Giám Mục Quảng Châu.
Chứng từ của Đức Cha Đaminh Đặng Dĩ Minh trình bày dưới tựa đề: ”Độc thân là trung
tín với bản sắc đặc thù của Linh Mục”. Xin trích dịch phần cụ thể của chứng từ.
Trong vòng 22 năm trời, tôi bị tách biệt hẳn với gia đình và bạn bè. Kinh nguyện và
Thần Linh THIÊN CHÚA hỗ trợ tôi cách đặc biệt trong những giờ phút đen tối, những
giờ phút mà đôi khi tôi cảm thấy THIÊN CHÚA thật xa vời. Và chính từ kinh nghiệm đau
thương này mà tôi rút tỉa suy tư về sự độc thân Linh Mục.
Đối với tôi, độc
thân Linh Mục là lời đáp trả tiếng Chúa kêu mời ta tận hiến hoàn toàn cho Ngài và
cho việc chăm sóc dân Ngài .. Đời độc thân, nếu được sống kết hợp mật thiết với Chúa,
sẽ giúp người độc thân đi đến chỗ chấp nhận cả đến hy sinh chính mạng sống mình.
Tôi muốn tưởng niệm vị Linh Mục bí thư của tôi, Cha Anthony Nhan Đức Giang. Nhiều
người xem ngài như vị thánh sống. Nhưng riêng Cha, hẳn Cha sẽ cười, khi nghe được
tặng danh hiệu này, vì đối với Cha, Cha cho mình chỉ chu toàn mọi bổn phận thường
ngày và sống trọn lời tuyên hứa với Đức Chúa GIÊSU KITÔ ngày lãnh nhận thiên chức
Linh Mục. Như thế thì không có gì đáng gọi là anh hùng cả. Tuy nhiên, khi thử thách
xảy đến, chính lúc ấy, Cha Anthony biểu lộ lòng can đảm và nhân đức khác thường của
mình.
Trong giao tế với phụ nữ, Cha Nhan luôn luôn tỏ ra nhã nhặn và dè dặt.
Trong công tác mục vụ, Cha giúp đỡ mọi người, không trừ ai, đàn ông cũng như đàn bà.
Không ai dám dèm pha Cha về những sơ sót, lỗi lầm - dù hết sức nhỏ nhặt - trong đời
sống độc thân Linh Mục của Cha. Đây là một trong những lý do căn bản khiến Cha được
mọi tín hữu Công Giáo Trung Hoa, hân hạnh quen biết Cha, phải kính trọng nể vì.
Cha Anthony Nhan Đức Giang còn là Linh Mục bí thư lý tưởng. Vì tâm đầu ý hợp với tôi
nên Cha đặc biệt giúp tôi trong những quyết định tế nhị và khó khăn, khi nhà nước
cộng sản Trung Quốc, mỗi ngày một tạo áp lực trên Giáo Hội Công Giáo. Một lần, chúng
tôi phải vừa trả thuế rất nặng cho chính phủ, vừa phải nuôi dưỡng hàng giáo sĩ và
các nữ tu. Một vài người khuyên chúng tôi bán tài sản của Giáo Hội, nhưng Cha Giang
chỉ lắc đầu nói không.
Chúng tôi không thể vi phạm giáo luật, mặc dầu như thế
có nghĩa là chúng tôi phải sống trong nghèo khổ và túng thiếu.
Sau đó Cha
Giang bị bắt, bị cầm tù rồi bị đưa đi lao động khổ sai tại miền bắc tỉnh Quảng Đông.
Nơi đây vì quá lao lực nên Cha ngã bệnh và qua đời.
Đức Cha Đaminh Đặng Dĩ
Minh viết tiếp. Trước khi được trả tự do, tôi bị gọi ra thẩm vấn lần chót. Người ta
hỏi tôi về lập trường đối với Vatican. Tôi trả lời:
- Là tín hữu Công Giáo,
tôi không thể sống tách rời khỏi Đức Giáo Hoàng!
Câu trả lời khiến cho viên
công an nổi giận và nói:
- Sau 22 năm bị giam tù mà ông vẫn mãi mãi là người
cứng đầu!
10 ngày sau, ông ta trở lại gặp tôi và nói:
- Trước tiên
ông là người ngay chính. Rồi ông không bao giờ sử dụng tiền của Giáo Hội vào việc
riêng, kể cả tiền mẹ ông cho ông. Sau cùng, ông không bao giờ đi lại với đàn bà, và
như thế, có thể kết luận rằng, ông không bao giờ làm điều gì hại dân.
Đây
là ba lý do chính khiến tôi được trả tự do. ”Ông không bao giờ đi lại với đàn
bà”. Câu nói của viên công an ngầm minh chứng tôi hoàn toàn trung thành với sự độc
thân Linh Mục. Nhưng câu nói cũng ngầm công nhận rằng, có một khía cạnh tốt đẹp trong
cuộc sống độc thân, khiến họ bắt buộc phải thả tôi ra.
... Các môn đệ
thưa cùng Đức Chúa GIÊSU: ”Nếu làm chồng mà phải như thế
đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn”. Nhưng Người
nói với các ông: ”Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng
chỉ những ai được THIÊN CHÚA cho hiểu mới hiểu. Quả vậy, có những
người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả
năng; có những người không thể kết hôn vì bị người
ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước
Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mátthêu 19,10-12).
(”SOLO
PER AMORE”, riflessioni sul celibato sacerdotale, Edizioni Paolini, 1993, trang 141-147).