Trong bài viết ”On a Wing and a Prayer - Chuyến Bay và Lời Cầu Nguyện”, bà Laura Elliott
- người Mỹ - kể lại câu chuyện của thân phụ, ông Jack Elliott, xảy ra vào thời thế
chiến thứ hai 1939-1945. Lúc ấy là đầu năm 1944. Năm đó ông Jack là phi công của quân
đội Hoa Kỳ tham dự chiến cuộc tại Châu Âu. Câu chuyện ghi đậm những cơ may, những
người ngoại quốc tốt lành mà ông Jack gặp được trên bước đường rủi ro hoạn nạn của
mình.
Khi nhận sứ-vụ-lệnh lái chiếc phi cơ ném bom B-24, tiến về thành phố
Friedrichshafen, nước Đức, Jack còn là thanh niên độc thân và là con trai duy nhất
của gia đình Elliott. Nhưng sứ vụ chưa thành thì chiếc máy bay bị bắn rơi tại một
làng nước Pháp, giáp giới hai nước Thụy Sĩ và Đức ..
Nơi quê nhà, tại thành
phố Richmond, thủ phủ bang Virginia, Hoa Kỳ, bà Martha Blanton Elliott đau đớn nhận
tin con trai bị mất tích khi đang thi hành sứ vụ. Điện tín Bộ Chiến Tranh gửi cho
gia đình bà vỏn vẹn chỉ có thế, không thêm chi tiết nào khác. Nhưng chính vì nó quá
vắn gọn khiến bà Martha cảm thấy như xé rách ruột gan. Và rồi trong đầu óc của bà
vẽ vời không biết bao thắc mắc, âu lo. Bà kinh ngạc thầm nghĩ, làm sao vào chính ngày
con trai bị rớt máy bay nghiêm trọng như thế, bà lại không linh cảm gì ráo trọi???
Bà còn đánh bài chơi với mấy người bạn nữa chớ, trong khi con trai phải trải qua giây
phút kinh khiếp hãi hùng!!!
Nghĩ thế rồi bà Martha tha thiết cầu nguyện cho
con. Bà cầu xin có bà mẹ người Đức nào đó, bất ngờ gặp thấy con bà và giúp đỡ con
bà. Cầu nguyện xong, bà tìm cách khuây khỏa trong các công việc của nông trại ..
Trong khi đó, bên trời Âu Châu, Jack bắt đầu sống giây phút của phi công bị nạn trong
thời chiến.
Khi cánh trái chiếc B-24 bắt lửa cháy sáng, Jack vội vàng thu
xếp và nhảy dù ra khỏi máy bay. Vừa rơi xuống đất, anh tìm cách thủ tiêu chiếc dù
và chích vào mình mũi nha phiến, rồi đi bộ về hướng Tây, quay lưng lại với nước Đức.
Đi được một quãng đường, anh bỗng trông thấy một người đàn ông cao tuổi, đạp xe đạp
tiến về phía mình. Thấy không thể ẩn núp kịp, Jack đành xin người kia giúp mình, vì
quả thật, anh bị thương nơi chân khi rơi xuống, khiến anh bước đi cách khó khăn ..
May mắn thay, đây là người Pháp nói thạo tiếng Anh và thuộc quân đội đồng minh chống
Đức. Ông chở Jack đến trường học trong làng, giấu nơi lớp học, rồi cho Jack ăn uống.
Nhưng khi nhìn thấy bàn chân Jack sưng phù lên, ông nói:
- Tôi sợ chân anh
bị gãy. Vậy tôi sẽ đưa anh đến nhà thương ở Bern, bên Thụy Sĩ.
Khi đến gần
biên giới, ông bảo Jack đi vòng vào rừng, chui qua các hàng thép gai, rồi đợi ông
bên kia biên giới. Trong khi đó, ông tìm cách thương lượng với các lính canh .. Cuộc
thương lượng và trốn thoát trôi chảy. Phải mất hai ngày, người đàn ông mới đưa Jack
đến nhà thương ở Bern. Vừa đến cổng nhà thương, người đàn ông ”nhân lành” cũng biến
mất!
Đó là hình ảnh và là bài học đầu tiên Jack tiếp nhận trên bước đường
hoạn nạn. Những người giúp Jack sau này cũng thế, tất cả đều kín đáo và cẩn mật. Thì
ra họ thuộc nhóm đồng minh, làm việc trong bí mật, hầu có thể đánh đuổi quân Đức ra
khỏi các nước bị xâm chiếm.
Cuộc lần mò trốn thoát quân Đức và tìm gặp lại
binh sĩ Hoa Kỳ của Jack kéo dài trong vòng 9 tháng trời. Tháng 12 năm 1944, Jack lên
máy bay trở lại Hoa Kỳ, gặp cha mẹ và người chị gái đã lập gia đình.
Bà Laura
Elliott kết thúc: Khi viết lại câu chuyện gặp hoạn nạn của thân phụ, tôi cảm thấy
như hiểu rõ hơn đức tính cao quý của người cha khả kính. Đức tính nổi bật nhất của
Ba tôi là luôn luôn tin tưởng nơi lòng tốt của anh chị em đồng loại, dù người đó thuộc
màu da quốc tịch nào.
Thân phụ tôi ít khi nhắc lại hình ảnh kinh hoàng khủng
khiếp của cuộc thế chiến thứ hai. Nhưng khi có dịp nhắc đến, dầu hết sức vắn gọn,
câu chuyện xảy ra cách đây hơn 50 năm, giọng Ba tôi trầm hẳn xuống. Ba tôi không bao
giờ quên ơn tất cả ai giúp Ba tôi thoát nạn và sống sót.
Một thời gian sau
thế chiến thứ hai, khi trở lại Hoa Kỳ, Ba tôi tham dự đám tang một binh sĩ. Chính
Ba tôi đi theo quan tài, đưa người lính trẻ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Nơi nghĩa trang,
đứng bên cạnh quan tài là người mẹ, người vợ và hai đứa con người lính quá cố. Khi
những phát súng vừa bắn lên trời tiễn biệt người ra đi, đứa con nhỏ nhất của người
lính quá cố nhìn lên trời và nói:
- Đó là đường Ba con đi lên TRỜI!
Từ đó, thỉnh thoảng Ba tôi lặng lẽ đi ra nghĩa trang, đến viếng mộ người lính trẻ
ra đi để lại mẹ già, người vợ trẻ và hai đứa con thơ..
... ”Những ai nghèo
hèn, khốn khổ, tìm nước không ra, lưỡi khô vì khát, Ta,
Đức Chúa, Ta sẽ đáp lời, Ta, THIÊN CHÚA của Israel, Ta
sẽ không bỏ rơi chúng. Ta sẽ khai mở sông ngòi trên các đồi
trọc, và khe suối dưới các lũng sâu. Ta sẽ biến hoang địa
thành hồ ao, biến đất khô nên mạch nước dồi dào.
Và trong vùng hoang địa, Ta sẽ trồng bá hương, keo, sim với ô-liu.
Trên những dải đất hoang, Ta sẽ cho mọc lên một trật nào trắc
bá, nào du, nào hoàng dương, để cùng một lúc, thiên hạ đều nhìn
ra và nhận biết, nghiền ngẫm và hiểu rằng: điều ấy, bàn tay THIÊN
CHÚA đã làm nên, điều ấy, THIÊN CHÚA của Israel đã
tạo thành” (Isaia 41,17-20).