Chúa nhựt hôm qua vừa là lễ kính Thánh Gia, vừa là ngày cuối năm dương lịch.
Bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền tin được
dành để giải thích ý nghĩa của lễ Thánh Gia, hay nói đúng hơn: trình
bày ơn gọi của gia đình Kitô giáo từ việc chiêm ngắm mẫu
gương của Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và thánh Giuse ở gia
đình Nazareth. Vào ban chiều, tại đền thờ thánh Phêrô, đức
thánh cha đã chủ sự kinh chiều thứ nhất của Lễ Đức Maria Thân
mẫu Thiên Chúa, và hát kinh Tạ ơn, và đã giảng về ý nghĩa của thời
gian. Trước tiên, xin mời quý vị theo dõi bài huấn từ trước
khi đọc kinh Truyền tin
Anh chị em thân mến
Vào chúa nhựt
chót trong năm, chúng ta mừng lễ Thánh Gia Nazareth. Tôi xin gửi lời chúc mừng đến
tất cả mọi gia đình trên thế giới, cầu chúc cho họ được hưởng sự bình an và tình yêu
thương mà Chúa Giêsu đã mang lại khi đến với chúng ta vào lễ Giáng sinh. Trong các
sách Tin mừng, chúng ta không thấy bài giảng nào về gia đình, nhưng có một biến cố
còn hùng hồn hơn bất cừ lời lẽ nào hết, đó là Thiên Chúa đã muốn sinh ra và lớn lên
trong một gia đình của loài người. Như vậy Người đã thánh hiến gia đình như là con
đường thứ nhất và thông thường để gặp gỡ nhân loại. Trong cuộc sống tại Nadaret, Đức
Giêsu đã tôn kính đức trinh nữ Maria và đấng công chính Giuse, vâng phục họ trong
suốt thời gian thơ ấu và trưởng thành (xc. Lc 2,51-52). Qua đó đức Giêsu đã nêu cao
giá trị hàng đầu của gia đình trong việc giáo dục con người. Nhờ đức Maria và thánh
Giuse, đức Giêsu được hướng dẫn vào cộng đoàn tôn giáo, qua việc lui tới hội đường
Nadaret. Cùng với các ngài, đức Giêsu đã học biết hành hương lên đền thờ Giêrusalem,
theo như đoạn sách Tin mừng mà phụng vụ hôm nay trưng bày cho ta suy gẫm. Khi lên
12 tuổi, Người đã ở lại trong đền thờ, và khiến cho song thân phải mất ba ngày mới
tìm thấy. Qua cử chỉ đó, đức Giêsu muốn cho các ngài hiểu rằng minh phải “quan tâm
đến những chuyện của Cha mình”, nghĩa là sứ vụ mà Thiên Chúa đã ủy thác (xc. Lc 2,41-52).
Đoạn
sách Tin mừng này đã mặc khải cho thấy ơn gọi chân chính và sâu thẳm nhất của gia
đình, đó là hướng dẫn mỗi phần tử trong hành trình khám phá Thiên Chúa và kế hoạch
mà Ngài đã xếp đặt cho mình. Mẹ Maria và thánh Giuse đã giáo dục đức Giêsu trước hết
là bằng gương sáng của mình: nơi song thân, đức Giêsu đã nhận được vẻ đẹp của đức
tin, của lòng mến Chúa và luật Chúa, cũng như những yêu sách của sự công bằng, một
nhân đức đạt tới viên mãn ở nơi lòng yêu thương (xc Rm 13,10). Từ song thân, đức Giêsu
đã học biết rằng tiên vàn phải thi hành ý muốn của Chúa, và mối dây tinh thần thì
chặt chẽ hơn là mối dây máu mủ. Thánh gia Nadaret thực là khuôn mẫu của mọi gia đình
kitô giáo. Gia đình Kitô giáo, được liên kết với nhau nhờ bí tích hôn nhân và được
nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể, được mời thể hiện ơn gọi và sứ mạng cao quý
là trở nên tế bào sống động không những là của xã hội mà thôi, mà còn của Giáo hội,
là dấu chỉ và dụng cụ của sự hợp nhất của toàn thể nhân loại nữa.
Chúng ta
hãy cùng nhau nài xin Mẹ Maria và thánh Giuse che chở hết mọi gia đình, và cách riêng
những gia đình đang gặp khó khăn. Xin các ngài nâng đỡ các gia đình để họ biết chống
cự lại những trào lưu phân hoá trong văn hoá hiện đại, đang làm lung lay các gốc
rễ của thể chế gia đình. Xin các ngài giúp các gia đình Kitô giáo trên khắp thế
giới được nên hình ảnh của tình thương của Thiên Chúa.
Vào lúc 6
giờ chiều, Đức Thánh Cha đã chủ sự Kinh chiều Một lễ trọng
Đức Maria là Thân mẫu Thiên Chúa tại đền thờ thánh Phêrô. Vừa
sau khi xướng kinh, thay cho bài thánh thi, cộng đoàn đã hát
kinh Te Deum tạ ơn Chúa. Kế đó, sau ba thánh vịnh,
đức Bênêđictô XVI đã có bài giảng, mà chúng tôi xin trích dịch
những đoạn chính.
Chúng ta tề tựu trong đền thờ này để tạ
ơn Chúa vào dịp cuối năm và hát kinh Te Deum Tôi xin hết lòng cám ơn anh chị em đã
đến hợp ý với tôi trong giây phút đầy ý nghĩa này. Vào buổi chiều ngày 31 tháng chạp,
có hai viễn tượng trùng hợp với nhau: một bên gắn với sự kết thúc năm dân sự; bên
kia là lễ phụng vụ kính Đức Maria thân mẫu Thiên Chúa, kết thúc tuần bát nhật lễ
Giáng sinh. Biến cố thứ nhất chung cho hết mọi người; biến cố thứ hai riêng cho các
tín hữu. Sự trùng hợp hai biến cố mang lại cho buổi kinh chiều hôm này một đặc điểm
độc đáo, trong một khung cảnh thiêng liêng mời gọi chúng ta hãy suy nghĩ.
Đề
tài thứ nhất liên quan đến chiều kích của “thời gian”. Vào những giờ cuối của năm
dương lịch, chúng ta chứng kiến sự lặp lại vài nghi thức dân gian, và trong thời nay
thường mang dấu vết của sự tiêu khiển để thoát khỏi thực tại, kiểu như để xua đuổi
những tà ma và để cầu may. Cộng đoàn Kitô hữu cần có thái độ khác. Vào những giờ phút
này, Giáo hội được mời hãy sống những tâm tình của Mẹ Maria. Cùng với Mẹ, Giáo hội
được mời hãy cắm mắt nhìn Hài nhi Giêsu, là mặt trời mới mọc lên cho nhân loại, và
nhờ ánh sáng của Người soi chiếu, Giáo hội được thúc giục hãy dâng lên Chúa “những
nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những nỗi sầu và lo âu của những con người thời nay,
cách riêng của những người nghèo và những người đau khổ” (Hiến chế Gaudium et spes,
số 1).
Như vậy có hai lối đánh giá khác nhau về thời gian: một thứ xét về
lượng, một thứ xét về phẩm. Một bên là chu kỳ mặt trời với những vận chuyển của nó.
Bên kia là điều mà thánh Phaolô gọi là “thời gian viên mãn” (Gl 4,4), nghĩa là tột
điểm của lịch sử vũ trụ và lịch sử nhân loại, khi mà Con Thiên Chúa sinh ra đời. Thời
kỳ hứa hẹn đã sung mãn, và lúc sự cưu mang của Đức Maria đã đến tận điểm, thì “đất
đã sinh ra hoa trái” theo lời của thánh vịnh (66,7). Việc xuất hiện của Chúa Cứu thế,
đã được các ngôn sứ loan báo trước, là một biến cố quan trọng nhất của toàn thể lịch
sử, xét về phẩm chất, vì nó mang lại một ý nghĩa đầy đủ và tận cùng. Không phải là
những yếu tố lịch sử xã hội đã định đoạt chương trình của Thiên Chúa; trái lại, chính
biến cố Nhập Thể đã chất đầy giá trị và ý nghĩa cho lịch sử. Chúng ta có thể khẳng
định điều này, kể cả hậu nghiệm sau hai ngàn năm, sau khi đã hiểu biết tất cả cuộc
đời Chúa Giêsu cho đến cuộc Tử nạn và Phục sinh. Chúng ta là những chứng nhân của
ánh vinh quang và sự khiêm tốn của Người, của giá trị vô biên của việc Người đến với
chúng ta và của việc Thiên Chúa tôn trọng con người và lịch sử nhân loại. Thiên Chúa
không chất đầy thời gian từ sự trút đổ “bên ngoài”, nhưng là từ “bên trong”, khi trở
nên một hạt giống bé nhỏ để dẫn đưa nhân loại tới chỗ chín vàng. Chính vì thế mà Thiên
Chúa đã muốn một thời gian lâu dài để chuẩn bị từ ông Abraham đến đức Giêsu Kitô,
và sau khi Đức Mesia đến thì lịch sử chưa kết thúc nhưng cứ tiếp tục trôi chảy, bề
ngoài xem ra đều đều, nhưng kỳ thực, lịch sử đã được Thiên Chúa viếng thăm và quy
hướng đến việc Quang lâm vào tận cùng thời gian.
Đức Maria là một biểu tượng
của tất cả những điều vừa nói. Khi chú giải đoạn văn Galat 4,4, ông Origène nhận xét
rằng Đức Kitô không phải sinh ra qua một phụ nữ nhưng là bởi một phụ nữ. Nếu Đức Kitô
chỉ sinh “qua” một phụ nữ thì Người sẽ không phải là con người thật. Đức Kitô vừa
là Con Thiên Chúa, lại vừa là con người: một ngôi vị Thiên Chúa đã hoàn toàn thâu
nhận bản tính con người. Người là Con Thiên Chúa vì sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn
đời; và cũng là người con sinh ra bởi một phụ nữ. Vì thế người thân mẫu của đức Giêsu
được gọi đích đáng rằng thân mẫu của Thiên Chúa. Chúng ta kêu cầu Người “thánh Maria
Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Vào dịp cuối năm chúng ta xin Mẹ
chuyển cầu cho thành phố Roma, cho nước Italia, cho châu Âu, cho toàn thế giới. Chúng
ta ký thác cho Ngưòi cách riêng những hoàn cảnh mà chỉ cho ân sủng Chúa mới làm được,
đó là hoà bình, công lý. “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Chúng ta xin
Mẹ cầu cho chúng ta được lòng tin trưởng thành, đức tin trong suốt, tinh tuyền, khiêm
tốn như Mẹ, đồng thời đức tin can trường, đầy hy vọng và hăng say, chứ không thúc
thủ buông xuôi; một đức tin thuận theo ý Chúa, chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn luôn
không muốn gì khác hơn là tình thương và sự sống. Bình Hòa