Sứ điệp của ĐTC Biển Đức 16 nhân Ngày
Hòa Bình Thế giới 2007
”Con người, trọng tâm của hòa bình”
Vào đầu năm mới, tôi muốn
gửi đến các Nhà Cầm Quyền và các vị Hữu Trách của các dân nước, cũng như tất cả mọi
người nam nữ thiện chí, những lời cầu chúc hòa bình. Tôi đặc biệt gửi đến những người
đang đau khổ, những người đang bị bạo lực và sức mạnh của võ khí đe dọa, hoặc bị chà
đạp nhân phẩm, và đang chờ đợi được giải phóng về mặt nhân bản và xã hội. Tôi gửi
lời chúc hòa bình đến các trẻ em, với sự thơ ngây trong trắng, các em đang làm cho
nhân loại được phong phú về lòng từ nhân và hy vọng, và qua đau khổ, các em đang thúc
đẩy tất cả chúng ta trở thành những người kiến tạo công lý và hòa bình. Chính khi
nghĩ đến các trẻ em, đặc biệt là những em có tương lai bị thương tổn vì sự bóc lột
và sự gian ác của người lớn vô lương tâm, mà tôi muốn rằng nhân dịp Ngày Hòa Bình
thế giới, mọi người cùng lưu tâm đến đề tài Con người, trọng tâm của hòa bình. Thực
vậy, tôi xác tín rằng khi tôn trọng con người, tức là ta thăng tiến hòa bình, và khi
xây dựng hòa bình, ta đặt nền móng cho một thuyết nhân bản toàn diện chân chính. Và
như thế, ta chuẩn bị một tương lai thanh thản cho các thế hệ trẻ.
Con người
và hòa bình: hồng ân và nghĩa vụ
2. Kinh Thánh khẳng
định: ”Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài; Ngài tạo dựng họ theo hình
ảnh Thiên Chúa; Ngài tạo dựng họ có nam có nữ” (Gn 1,27). Vì được
dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, mỗi người có nhân phẩm; họ không
phải chỉ là một sự vật, nhưng là một người, có khả năng biết mình, tự chủ, tự do hiến
thân và hiệp thông với những người khác. Đồng thời, do ơn Chúa, con người được kêu
gọi tiến đến một giao ước với Đấng Tạo Dựng nên mình, dâng lên Ngài một lời đáp trả
tin yêu mà không ai khác có thể trả lời thay (1). Trong viễn tượng tuyệt vời ấy, ta
hiểu nghĩa vụ được ủy thác cho con người là làm cho mình được trưởng thành trong khả
năng yêu mến và làm cho thế giới được tiến triển, bằng cách canh tân thế giới trong
công lý và hòa bình. Trong một tổng hợp xúc tích, thánh Augustino dạy rằng: ”Thiên
Chúa đã dựng nên chúng ta mà không cần chúng ta, nhưng Ngài không muốn cứu vớt chúng
ta mà không có chúng ta” (2). Vì thế, tất cả mọi người đều có nghĩa vụ vun trồng nơi
bản thân ý thức về hai khía cạnh hồng ân và nghĩa vụ.
3. Hòa bình
cũng là một hồng ân đồng thời là nghĩa vụ.
Quả thực hòa
bình giữa con người và các dân tộc - khả năng sống cạnh nhau bằng cách kiến tạo những
quan hệ công bằng và liên đới - chính là một sự dấn thân không ngừng. Nhưng hơn thế
nữa, hòa bình là hồng ân của Thiên Chúa. Thực vậy, hòa bình là một đặc tính
trong hành động của Chúa, được biểu lộ qua sự tạo dựng một vũ trụ có trật tự hài hòa
cũng như qua sự cứu chuộc nhân loại cần được cứu chuộc khỏi xáo trộn của tội lỗi.
Vì thế, sự sáng tạo và cứu cuộc mang lại chìa khóa để đọc, để hiểu ý nghĩa cuộc sống
của chúng ta trên trái đất. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Gioan Phaolô 2, khi
ngỏ lời với Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 5-10-1995, đã khẳng định rằng ”chúng
ta không sống trong một thế giới vô lý hoặc không có ý nghĩa (...), trái lại có một
lý lẽ tinh thần soi sáng cuộc sống con người và làm cho cuộc đối thoại giữa con người
và các dân tộc có thể diễn ra được” (3). ”Văn phạm” siêu việt, nghĩa là toàn thể các
qui luật hành động của cá nhân và quan hệ của con người với nhau theo công lý và tình
liên đới, được ghi khắc trong lương tâm, trong đó có phản ánh dự phóng khôn ngoan
của Thiên Chúa. Như mới đây tôi đã muốn tái khẳng định, ”Chúng ta tin rằng từ khởi
thủy đã có Ngôi Lời vĩnh cửu, Lý Trí, chứ không phải là sự Vô Lý Trí” (4). Vì thế
hòa bình cũng là một nghĩa vụ đòi mỗi người phải đích thân đáp ứng bằng cuộc sống
phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa. Tiêu chuẩn để đáp ứng nghĩa vụ ấy chỉ có thể
là tôn trọng ”văn phạm” đã được Đấng Tạo Hóa ghi khắc trong tâm hồn con người.
Trong viễn tượng ấy, không được coi các qui tắc của luật luân lý tự nhiên như những
mệnh lệnh áp đặt từ bên ngoài, hầu như cưỡng bách tự do của con người. Trái lại, chúng
phải được tiếp nhận như một lời kêu gọi hãy trung thành thực hiện dự phóng hoàn vũ
của Thiên Chúa được ghi khắc trong bản tính con người. Được các qui luật ấy hướng
dẫn, các dân tộc - trong các nền văn hóa liên hệ, có thể đến gần một mầu nhiệm cao
cả hơn, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa. Vì thế, sự nhìn nhận và tôn trọng luật tự nhiên
ngày nay trở thành nền tảng rộng lớn để đối thoại giữa các tín hữu thuộc các tôn giáo
khác nhau và giữa những người có tín ngưỡng với cả những người không tín ngưỡng. Đó
là một điểm gặp gỡ lớn, và là một tiền đề cơ bản để có hòa bình chân chính.
Quyền sống và tự do tôn giáo
4. Nghĩa vụ tôn trọng phẩm giá mỗi người
với bản tính phản ánh hình ảnh Thiên Chúa, bao hàm một hệ luận là không thể tùy
tiện sử dụng con người theo sở thích của mình. Ai có nhiều quyền
bính hơn về chính trị, kỹ thuật, kinh tế, thì không thể lạm dụng chúng để vi phạm
các quyền của những người khác kém may mắn hơn. Thực vậy, hòa bình dựa trên sự tôn
trọng các quyền của tất cả mọi người. Ý thức điều đó, Giáo Hội bênh vực các quyền
căn bản của mỗi người. Đặc biệt Giáo Hội đòi hỏi sự tôn trọng quyền sống và tự do
tôn giáo của mỗi người. Sự tôn trọng quyền sống trong mọi giai đoạn chính là một điểm
có tầm quan trọng quyết định: sự sống là một hồng ân mà mỗi chủ thể không thể hoàn
toàn tùy tiện định đoạt. Cũng vậy, sự khẳng định quyền
tự do tôn giáo đặt mỗi người trong tương quan với một Nguyên Lý siêu việt,
đưa họ ra khỏi sự định đoạt của con người.
Quyền sống và tự do biểu lộ tín ngưỡng của mình nơi Thiên Chúa không phải là điều
nằm trong quyền hạn của con người. Hòa bình đòi hỏi phải thiết định một ranh giới
rõ ràng giữa những gì con người có thể tùy tiện xếp đặt
và những gì không phải như vậy: vì thế cần tránh du nhập những yếu
tố không thể chấp nhận được vào trong gia sản các giá trị vốn thuộc về con người,
trong tư cách họ là người.
5. Về quyền sống, cần phải tố giác mọi sự
vi phạm kinh khủng chống lại quyền này trong xã hội chúng ta: ngoài các nạn nhân của
những cuộc xung đột võ trang, của nạn khủng bố và nhiều hình thức bạo lực, còn có
những cái chết âm thầm do nạn đói, phá thai, thí nghiệm trên phôi thai và làm cho
chết êm dịu gây ra. Làm sao không thấy tất cả những điều hành vi đó là một cuộc tấn
kích chống lại hòa bình?
Phá thai và thí nghiệm trên các phôi thai là trực
tiếp phủ nhận thái độ đón nhận tha nhân, thái độ này là điều tối cần thiết để thiết
lập những quan hệ hòa bình lâu bền. Về sự tự do biểu lộ tín ngưỡng,
có một triệu chứng khác đáng lo âu về sự thiếu hòa bình trên thế giới, đó là những
khó khăn mà rất nhiều tín hữu Kitô và tín đồ các tôn giáo khác thường gặp phải trong
việc tuyên xưng các xác tín tôn giáo của họ một cách công khai và tự do. Đặc biệt
khi nói về các tín hữu Kitô, tôi phải đau lòng nhận thấy rằng nhiều khi không những
họ bị cấm cản, nhưng còn bị bách hại tại một số quốc gia, và gần đây người ta phải
ghi nhận những vụ bạo hành đau thương chống lại các Kitô hữu. Có những chế độ áp đặt
một tôn giáo duy nhất cho tất cả mọi người, trong khi đó có những chế độ dửng dưng,
tuy không thực hiện một cuộc bách hại khốc liệt, nhưng nhất loạt nuôi dưỡng một chế
nhạo văn hóa đối với các tín ngưỡng tôn giáo. Dầu sao, thái độ đó là không tôn trọng
một quyền căn bản của con người, với những âm hưởng trầm trọng trên cuộc sống chung
hòa bình. Tình trạng đó chắc chắn tạo nên một não trạng và một nền văn hóa
tiêu cực đối với hòa bình.
Sự bình đẳng
bản tính của tất cả mọi người 6. Nơi căn cội của nhiều căng thẳng
đang đe dọa hòa bình, chắc chắn là có vô số những chênh lệch bất công vẫn còn
nhan nhản trên thế giới. Trong số những bất công ấy, người ta thấy một đàng có những
điều đặc biệt nguy hiểm, đó là sự chênh lệch trong sự đạt tới những điều thiết yếu
như lương thực, nước, nhà cửa và sức khỏe; đàng khác, có những chênh lệch kéo dài
giữa nam giới và nữ giới trong việc thực thi các nhân quyền căn bản.
Việc nhìn nhận sự bình đẳng thiết yếu giữa con người, xuất phát từ phẩm giá siêu việt
chung của họ, chính là một yếu tố quan trọng hàng đầu để xây dựng hòa bình. Vì thế,
sự bình đẳng trên bình diện này là một thiện ích của tất cả mọi người, được ghi khắc
trong ”văn phạm” tự nhiên, có thể rút từ dự phóng sáng tạo của Thiên Chúa; một thiện
ích không thể lơ là hoặc coi rẻ mà không tạo nên những âm hưởng nặng nề, khiến cho
hòa bình bị lâm nguy. Tình trạng thiếu thốn trầm trọng mà nhiều dân tộc phải chịu,
nhất là tại Phi châu, là căn cội gây nên những đòi hỏi mạnh mẽ và vì thế chúng tạo
nên một vết thương sâu đậm cho hòa bình.
7. Sự kiện thân phận phụ nữ
không được tôn trọng đầy đủ cũng tạo nên những yếu tố gây bất ổn trong xã hội. Tôi
nghĩ đến sự bóc lột phụ nữ, bị đối xử như đồ vật, và bao nhiêu hình thức khác thiếu
tôn trọng đối với phẩm giá phụ nữ; trong một bối cảnh khác, tôi cũng nghĩ đến những
nhân sinh quan trong một số nền văn hóa, dành cho phụ nữ một vị thế phải tùng phục
rất nhiều nơi phán quyết của đàn ông, với hậu quả là gây ra thiệt hại cho nhân phẩm
của phụ nữ, và cho việc thực thi các quyền tự do của họ. Ta không thể không nhận rằng
hòa bình không được bảo đảm bao lâu người ta không vượt thắng những hình thức kỳ thị
như thế, gây thiệt hại cho phẩm giá con người, được Đấng Tạo Hóa ghi khắc nơi mỗi
người (5).
”Sinh thái học hòa bình”
8. Đức Gioan Phaolô 2,
trong Thông điệp Centesimus annus, Năm Thứ 100, đã viết: ”Không những trái
đất được Thiên Chúa ban cho con người, nhưng con người cũng phải sử dụng trái đất
trong niềm tôn trọng ý hướng nguyên thủy, tốt lành, theo đó trái đất được ban cho
con người; con người cũng được Thiên Chúa ban cho chính Ngài và vì thế, con người
phải tôn trọng cơ cấu tự nhiên và luân lý mà Chúa ban cho con người” (6). Tuân theo
mệnh lệnh của Đấng Tạo Hóa, con người, cùng với đồng loại, có thể kiến tạo một thế
giới hòa bình. Bên cạnh sinh thái học về thiên nhiên, còn có một thứ ”sinh thái học”
mà chúng ta có thể gọi là ”nhân bản”, và thứ sinh thái học này đôi khi lại đòi một
thứ ”sinh thái học xã hội”. Và điều ấy đối với nhân loại, có nghĩa là, nếu con người
quan tâm đến hòa bình, thì phải luôn để ý đến quan hệ giữa sinh thái học thiên nhiên,
tức là tôn trọng thiên nhiên, và sinh thái học nhân bản. Kinh nghiệm cho thấy rằng
mọi thái độ không tôn trọng môi sinh đều gây thiệt
hại cho cuộc sống chung của con người và ngược lại. Càng ngày người
ta càng thấy rõ một mối liên hệ không thể tách rời giữa hòa bình với thiên nhiên và
hòa bình giữa con người với nhau. Cả hai thứ hòa bình đều giả thiết phải có hòa bình
với Thiên Chúa. Bài thơ nguyện cầu của thánh Phanxicô, quen gọi là ”Thánh Ca Tu Huynh
Mặt Trời”, là một thí dụ tuyệt vời - luôn có tính chất thời sự - liên quan tới thứ
sinh thái học đa dạng về hòa bình.
9. Vấn đề ngày càng trầm trọng trong việc
thủ đắc năng lượng giúp chúng ta hiểu mối liên
hệ chặt chẽ dường nào giữa hai thứ sinh thái học nói trên. Trong những năm gần đây,
các quốc gia mới mẻ hăng say tiến vào công cuộc sản xuất công nghệ, làm gia tăng các
nhu cầu năng lượng. Điều ấy đang tạo nên một cuộc chạy đua tìm kiếm những nguồn năng
lượng ở mức độ chưa từng có. Trong khi đó tại một số miền trên thế giới, người ta
còn sống trong tình trạng rất chậm tiến, trong đó sự phát triển bị cản trở vì giá
năng lượng gia tăng. Các dân tộc ấy sẽ ra sao? Đâu là loại phát triển hoặc không-phát-triển
bị áp đặt cho họ vì sự khan hiếm trong việc cung cấp năng lượng? Đâu là những bất
công và những chống đối mà cuộc chạy đua tới các nguồn năng lượng sẽ tạo nên? Và những
người bị gạt ra ngoài cuộc chạy đua ấy sẽ phản ứng thế nào? Đó là những câu hỏi nêu
bật liên hệ chặt chẽ giữa sự tôn trọng thiên nhiên và sự cần thiết phải thiết lập
giữa con người và các dân nước những mối quan hệ để ý đến phẩm giá con người và có
khả năng thỏa mãn những nhu cầu đích thực của họ. Sự phá hủy môi sinh, sự lạm dụng
chúng một cách không thích hợp hoặc ích kỷ và sự cưỡng đoạt các tài nguyên trái đất
sẽ tạo ra những sâu xé, xung đột và chiến tranh, vì chúng là hậu quả của một quan
niệm vô nhân đạo về sự phát triển. Thực vậy, một sự phát triển chỉ thu hẹp vào khía
cạnh kỹ thuật và kinh tế, mà bỏ qua chiều kích luân lý và tôn giáo, thì không phải
là phát triển con người toàn diện, và rốt cuộc chỉ kích thích khả năng tàn phá của
con người mà thôi, vì sự phát triển ấy có tính chất một chiều.
Những nhân
sinh quan hẹp hòi
10. Vì thế, cũng trong khuôn khổ những khó khăn hiện
nay và những căng thẳng quốc tế, cần cấp thiết dấn thân thực thi một nền sinh thái
học nhân bản, tạo điều kiện thuận lợi cho cây hòa bình được
tăng trưởng. Để cố gắng thực thi công trình ấy, ta cần để cho mình được
hướng dẫn bằng một nhân sinh quan không bị lệch lạc vì những thành kiến ý thức hệ
và văn hóa hoặc những lợi lộc chính trị và kinh tế, xúi giục oán thù và bạo lực. Các
nhân sinh quan thay đổi tùy theo các nền nền văn hóa, đó là điều dễ hiểu. Nhưng điều
không thể chấp nhận được, đó là người ta duy trì những quan niệm nhân loại học
có mầm mống chống đối và bạo lực. Cũng vậy, không thể chấp nhận những quan niệm
về Thiên Chúa kích thích sự bất bao dung đối với đồng loại và sử dụng bạo lực
đối với họ. Một điều cần minh bạch nhắc lại, đó là: một cuộc chiến tranh nhân danh
Thiên Chúa không bao giờ là điều có thể chấp nhận được! Khi một thứ quan niệm
về Thiên Chúa là nguồn gốc sinh ra những hành vi tội ác, thì đó là một dấu hiệu chứng
tỏ quan niệm ấy đã bị biến thành ý thức hệ.
11. Nhưng ngày nay, hòa bình không
phải chỉ bị thương tổn do cuộc xung đột giữa những quan niệm hẹp hòi về con người,
nghĩa là giữa các ý thức hệ với nhau. Nó cũng bị thương tổn vì sự dửng dưng
đối với những gì tạo nên bản chất đích thực của con người.
Thực vậy, nhiều người ngày nay phủ nhận sự hiện hữu bản tính đặc thù của con người
và như thế họ tạo điều kiện cho những giải thích rất lạ thường về những yếu tố cấu
thành hữu thể người. Ở đây cũng cần phải minh xác rằng: một quan niệm 'yếu ớt' về
nhân vị con người, tạo dịp cho bất kỳ quan niệm nào, kể cả quan niệm kỳ quặc, thì
nó chỉ có vẻ bênh vực hòa bình mà thôi. Trong thực tế, nó cản trở sự đối thoại chân
thực và mở đường cho những áp đặt độc đoán, và rốt cuộc để cho chính con người không
được bảo vệ, và do đó dễ trở thành nạn nhân của áp bức và bạo lực.
Các
quyền con người và các tổ chức quốc tế
12. Một nền hòa bình
chân thực và vững bền đòi phải tôn trọng các quyền con người. Nhưng nếu các quyền
này dựa trên một quan niệm yếu ớt về con người, thì làm sao các quyền ấy không bị
suy yếu? Ở đây ta thấy rõ sự bất túc sâu đậm của một quan niệm duy tương
đối về con người, khi minh chứng và bảo vệ các quyền của
con người. Sự bế tắc ở đây thật là rõ ràng: các quyền được coi như tuyệt đối, nhưng
nền tảng mà nó trưng dẫn chỉ lại có tính chất tương đối. Ta tự hỏi, đứng trước những
đòi hỏi ”gây khó chịu” về quyền này hay quyền kia, có người nào có thể đứng lên phản
đối hoặc quyết định gạt bỏ nó hay chăng? Chỉ khi nào ăn rễ sâu trong những yêu sách
khách quan của nhân tính do Đấng Tạo Hóa ban cho con người, thì các quyền được dành
cho con người mới có thể được khẳng định mà không sợ bị phủ nhận. Ngoài ra, điều hiển
nhiên là các quyền con người có kèm theo nghĩa vụ. Về điểm này, Mahatma Gandhi đã
nói thật chí lý: ”Sông Hằng các quyền lợi chảy xuống từ Hi-mã-lạp-sơn các nghĩa vụ”.
Chỉ khi nào làm sáng tỏ về những tiền đề căn bản ấy, thì các quyền con người mới có
thể được bảo vệ thích đáng, đứng trước những cuộc tấn kích liên tục ngày nay. Nếu
không có sự minh bạch ấy, thì rốt cuộc người ta dùng cùng một thành ngữ ”các quyền
con người”, nhưng lại hiểu ngậm đó là những điều rất khác biệt nhau: đối với người
này, con người có phẩm giá trường tồn và có những quyền luôn có giá trị, ở mọi nơi
và đối với bất kỳ một ai; nhưng đối với người khác, phẩm giá con người thay đổi tùy
theo hoàn cảnh và các quyền của họ luôn là điều có thể thương lượng được về nội dung,
không gian và thời gian.
13. Các tổ chức quốc tế luôn nói về việc bảo vệ các
quyền con người, đặc biệt là Liên Hợp Quốc, qua Tuyên ngôn quốc tế năm 1948 về nhân
quyền, đã ấn định cho mình một nghĩa vụ cơ bản là thăng tiến các quyền con người.
Bản Tuyên ngôn này được coi như một sự cam kết luân lý của toàn thể nhân loại.
Điều này bao hàm một sự thật sâu xa, nhất là nếu các quyền được mô tả trong Tuyên
ngôn được coi như có nền tảng không phải chỉ do quyết định của Đại Hội đồng LHQ đã
phê chuẩn các quyền ấy, nhưng trong chính bản tính của con người và trong phẩm giá
bất khả nhượng của con người được Thiên Chúa dựng nên. Vì thế, điều quan trọng là
các tổ chức quốc tế đừng quên nền tảng tự nhiên của các quyền con người. Nhờ đó, người
ta có thể tránh được nguy cơ luôn tiềm ẩn, đó là rơi vào một sự giải thích các quyền
ấy theo xu hướng duy thực nghiệm. Nếu điều đó xảy ra, thì các Tổ chức quốc tế sẽ mất
uy tín cần thiết để thi hành vai trò bảo vệ các quyền căn bản của con người và của
các dân tộc, vai trò này là lý do chính yếu để các Tổ Chức ấy hiện hữu và hoạt động.
Công pháp quốc tế về nhân đạo và luật pháp nội bộ của các quốc gia
14. Với ý thức rằng có những nhân quyền bất khả nhượng gắn liền với bản tính chung
của con người, người ta đã soạn ra một công pháp quốc tế về nhân đạo,
mà các nước đã cam kết tuân hành, cả trong trường hợp chiến tranh. Nhưng đáng tiếc
là, khác với trước đây, công pháp ấy không được thực thi thích đáng trong một số hoàn
cảnh chiến tranh gần đây. Chẳng hạn trong cuộc xung đột cách đây vài tháng tại miền
nam Liban, nơi mà nghĩa vụ bảo vệ và giúp đỡ các nạn nhân vô tội và không đưa các
thường dân vào vòng chiến tranh phần lớn đã không được tuân hành. Cuộc xung đột đau
thương tại Liban và hình thái mới của các cuộc xung đột, nhất là từ khi hiểm họa khủng
bố đã tạo nên những hình thức bạo lực chưa từng có, đang đòi
cộng động quốc tế nhắc nhớ công pháp quốc tế về nhân đạo và áp dụng nó cho tất cả
các tình trạng xung đột võ trang, kể cả những hoàn cảnh không được công pháp quốc
tế hiện hành dự trù. Ngoài ra, nạn khủng bố đang đòi phải suy nghĩ sâu xa hơn về những
giới hạn luân lý đạo đức gắn liền với việc sử dụng các phương tiện hiện nay để bảo
vệ an ninh quốc gia. Thực vậy, càng ngày càng có những cuộc xung đột không được tuyên
bố, nhất là khi chúng xuất phát từ những nhóm khủng bố quyết định đạt tới mục tiêu
của họ bằng bất kỳ phương thế nào. Đứng trước những cảnh tượng đảo lộn trong những
năm gần đây, các nước không thể không cảm thấy cần phải tạo cho mình những qui luật
rõ ràng hơn, có khả năng chống lại một cách hữu hiệu tình trạng trôi dạt sai trái
bi thảm mà chúng ta đang chứng kiến. Chiến tranh luôn luôn là một thất bại cho cộng
đồng quốc tế và là một mất mát lớn cho nhân loại. Dầu sao, khi nó xảy ra, thì ít nhất
cần phải bảo tồn các nguyên tắc thiết yếu của nhân loại và những giá trị nền tảng
của mọi cuộc sống chung, thiết lập các qui luật hành động giới hạn tối đa những thiệt
hại của chiến tranh và thoa dịu những đau khổ của các thường dân và mọi nạn nhân của
các cuộc xung đột (7).
15. Một yếu tố khác đang gây nên rất nhiều lo âu, đó
là ý chí gần đây của một số quốc gia muốn trang bị các võ khí hạt nhân. Kết
quả là bầu không khí bất bênh và sợ hãi lan rộng thêm đứng trước hiểm họa chiến tranh
hạt nhân. Tình trạng đó đưa trở lại quá khứ, trở lại những sợ hãi và lo âu trong thời
gọi là ”chiến tranh lạnh”. Sau thời đó, người ta đã hy vọng nguy cơ hạt nhân được
vĩnh viễn khắc phục và nhân loại có thể thở phào nhẹ nhõm. Về vấn đề này, lời cảnh
giác của Công đồng chung Vatican 2 vẫn có tính chất thời sự hơn bao giờ hết: ”Mọi
hành vi chiến tranh nhắm tàn phá bừa bãi toàn bộ các thành thị hoặc những miền rộng
lớn cùng với dân chúng trong đó, thực là một tội ác chống lại Thiên Chúa và chống
lại con người, và phải bị quyết liệt lên án không chút do dự” (8). Rất tiếc là những
bóng đen đe dọa vẫn tiếp tục dầy đặc thêm nơi chân trời nhân loại. Con đường có thể
đảm bảo một tương lai hòa bình cho mọi người, không những tiến qua các hiệp định quốc
tế chống lan tràn võ khí hạt nhân, nhưng còn qua quyết tâm theo đuổi sự giảm
bớt và hoàn toàn tháo gỡ các loại võ khí này. Không nên bỏ qua điều gì mà không thực
hiện để đạt tới các mục tiêu ấy, bằng đường lối thương thuyết. Đó là điều có liên
hệ tới vận mệnh của toàn thể gia đình nhân loại.
Giáo Hội bảo vệ sự siêu
việt của con người.
16. Sau cùng, tôi muốn tha thiết kêu
gọi Dân Chúa, để mọi Kitô hữu cảm thấy dấn thân trở thành những người hoạt động không
biết mệt mọi cho hòa bình, kiên trì bảo vệ phẩm giá và các quyền bất khả nhượng của
con người. Trong tinh thần cảm tạ Chúa vì đã được kêu gọi thuộc về Giáo Hội của
Chúa, trong thế giới này, là ”dấu chỉ và là sự bảo vệ chiều kích siêu việt của con
người” (9), tín hữu Kitô đừng bao giờ mỏi mệt trong việc cầu xin Chúa ban thiện ích
cơ bản là hòa bình rất quan trọng trong đời sống của mỗi người. Ngoài ra, tín hữu
hãy hãnh diện quảng đại phục vụ chính nghĩa hòa bình, tìm gặp anh chị em mình, nhất
là những người không những phải chịu cảnh nghèo đói và thiếu thốn, nhưng còn bị tước
đoạt mất thiện ích hòa bình quí giá. Chúa Giêsu đã tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa
là Tình Thương (1 Gioan 4,8) và ơn gọi cao cả nhất của con người là yêu
thương. Trong Chúa Kitô chúng ta có thể tìm được những lý do cao cả nhất để trở thành
những người cương quyết bảo vệ phẩm giá con người và những người can đảm kiến tạo
hòa bình.
17. Ước gì mỗi tín hữu không bao giờ ngừng đóng góp vào việc thăng
tiến một chủ thuyết nhân bản toàn diện đích thực, theo giáo huấn của Thông điệp ”Progressio
populorum”, Phát triển các dân tộc và ”Sollicitudo rei socialis”, Mối quan
tâm về các vấn đề xã hội, mà chúng ta sắp mừng kỷ niệm 40 năm và 20 năm trong năm
2007 này. Tôi phó dâng lời khẩn nguyện của tôi cho Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ của Chúa
Giêsu Kitô, Hòa bình của chúng ta (Ef 2,14), chúng ta hướng về Mẹ giữa những nguy
hiểm và các vấn đề, với tâm hồn đầy hy vọng. Xin Mẹ Maria chỉ cho chúng ta, nơi Con
của Mẹ, con đường hòa bình và soi sáng để chúng ta biết nhận ra Tôn nhan Ngài nơi
khuôn mặt của mỗi người, là trọng tâm của hòa bình!
Vatican ngày 8-12-2006
Biển Đức 16 Giáo Hoàng -------
Chú thích
1. Xc. Sách Giáo Lý của
Giáo Hội Công Giáo, n.357 2. Thánh Augustino, Bài Giảng 169, 11,13; PL 38, 923
3. n. 3: La Documentation catholique, 92 (1995), p.918 4. Bài giảng ở Islinger
Feld de Ratistone (12-9-2006): La Documentation catholique 103 (2006), p.922
5. Xc. Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư gửi các Giám Mục Giáo Hội Công Giáo về sự cộng tác
giữa người nam và người nữ trong Giáo Hội và trong thế giới (31-5-2004), nn.15-16:
La Documentation catholique 101 (2004), pp.783-784 6. N. 38: La Documentation
catholique 88 (1991), p.537 7. Về vấn đề này, ”Sách Giáo Lý của Giáo Hội
Công Giáo” trình bày những tiêu chuẩn nghiêm khắc và rõ ràng: Xc. 2307-2317.
8. Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium et spes, n.80 9.
Ibid. n.76