Ngày 26-11-1929, sau trận chiến nội tâm ”tàn-khốc”, ông Einar Berrum quyết
định gởi thư đến trụ sở hội tam điểm tại Na-Uy, xin rút tên ra khỏi hội.
Thư
gửi đi, ông tức khắc tìm được niềm an bình hạnh phúc khôn tả! Cùng ngày đó, ông đến
gặp Cha Sở nhà thờ chính tòa Công Giáo Oslo, thủ đô Na-Uy, xin gia nhập Giáo Hội Công
Giáo .. Bốn năm sau, ông lấy giấy ghi lại cuộc trở về với Giáo Hội Công Giáo.
Con
đường dẫn tôi đến với Giáo Hội là con đường bình thường. Có lẽ không bao giờ tôi viết
lại, nếu không có người xin tôi viết. Và khi chấp nhận lời yêu cầu, cùng lúc tôi muốn
bày tỏ lòng yêu mến và ghi ơn Giáo Hội Công Giáo, Mẹ chúng ta.
Tôi sinh năm
1872 tại Osolo và được may mắn lớn lên trong gia đình Kitô. Thân phụ tôi là tín hữu
tin lành mộ đạo.
Sau khi mãn bậc tiểu học, tôi được cha mẹ gửi sang Anh quốc,
bắt đầu bậc trung học đệ nhất cấp tại trường Thánh Olave ở thành phố York.
Đây
là trường học tin lành. Dĩ nhiên người ta nói với chúng tôi về ông tổ tin lành Luther
và trình bày cho chúng tôi biết tất cả thành kiến xấu về Giáo Hội Công Giáo và Vị
Giáo Hoàng của Giáo Hội này! Chính trong bầu khí bài xích Giáo Hội Công Giáo mà tôi
đi vào thế giới của tôn giáo và của văn chương khoa học.
Tôi không bao giờ
quên Chúa Nhật đầu tiên tại thành phố York. Hôm ấy tôi bước vào nhà thờ mang tên Thánh
Olave, vị thánh người Na-Uy. Đó là nhà thờ Anh giáo. Ban đầu tôi cứ ngỡ mình đang
ở trong nhà thờ Công Giáo, vì lúc ấy, tôi chưa thạo tiếng Anh cho lắm..
Lần
đầu tiên trong đời, tôi học biết quỳ gối. Và những nghi lễ trang trọng cùng với thánh
ca có nhạc cụ đi kèm, nghe thật du dương và thật sốt sắng. Buổi phụng vụ Chúa Nhật
ghi vào lòng tôi một ấn tượng tốt đẹp. Từ đó, tôi có thói quen đến nhà thờ này vào
mỗi Chúa Nhật để tham dự các nghi lễ phụng vụ.. Sau này, khi trở lại Oslo, tôi cũng
thường đến tham dự các buổi cử hành phụng vụ tại nhà thờ Anh giáo. Tôi đến đây không
phải vì tâm tình mộ đạo cho bằng bị lôi cuốn bởi nét đẹp của các buổi cử hành. Thế
thôi.
Sau khi mãn bậc trung học đệ nhất cấp tại Anh quốc, tôi trở về Na-Uy
học tiếp. Đến năm 1908 - tôi 36 tuổi - xảy ra biến cố làm thay đổi cuộc đời. Thân
phụ tôi giữ chức vụ cao trong hội tam điểm. Ông muốn các con trai ông phải ghi tên
vào hội này. Ngày 24-4-1908, anh em tôi chính thức ghi tên gia nhập hội tam điểm.
Năm
1918, tôi thành hôn với thanh nữ Đan-Mạch sống tại thủ đô Copenhagen. Hiền thê tôi
là tín hữu tin lành đạo đức và là phụ nữ trí thức. Nàng say mê văn chương và thích
nghe bài giảng hay. Khi thành hôn với tôi, nàng về sinh sống tại tỉnh nhỏ ở Na-Uy.
Chỉ có điều duy nhất nàng cảm thấy nhung nhớ, đó là những bài giảng hay trong các
nhà thờ tin lành ở thủ đô Copenhagen.
Một Chúa Nhật mùa chay năm 1928, khi
trở về nhà, nàng hớn hở nói với tôi nàng vừa tìm ra vị giảng thuyết thật hay, tại
nhà thờ Công Giáo thánh nữ Brigitte. Tôi tỏ dấu tức giận và hờn dỗi, vì thấy vợ tự
ý đi tìm nhà thờ Công Giáo, với vị giảng thuyết Công Giáo. Dầu vậy, từ đó, chúng tôi
đều đặn đến nghe giảng tại nhà thờ này .. Tuy nhiên, hạnh phúc lứa đôi bắt đầu lung
lay. Đôi khi chúng tôi còn cãi vả to tiếng với nhau nữa. Trong khi đó, vợ tôi mỗi
ngày một đến gần Giáo Hội Công Giáo.
Ngày 2-12-1928, Chúa Nhật Mùa Vọng, sau
khi bất bình với nhau về nhiều sự, vợ tôi vẫn cố gắng thuyết phục tôi đi lễ nơi nhà
thờ Các Linh Mục dòng Đaminh tại Oslo. Tôi miễn cưỡng nghe lời vợ. Đến nơi, tôi chọn
ngồi vào hàng ghế sau cùng. Nhưng thay vì cảm thấy khó chịu, tôi lại cảm thấy lòng
thanh thản lạ thường. Vị Linh Mục chủ lễ và giảng hôm đó là người Pháp. Vậy mà ngài
nói rành tiếng Na-Uy, không thể chê được. Thêm vào đó, bài giảng thật hay. Tôi xúc
động thật sự.
Năm sau, ngày 4-10-1929, vợ tôi chính thức gia nhập Giáo Hội
Công Giáo. Cuộc chiến nội tâm của tôi còn kéo dài đến ngày 26-11 cùng năm. Sau đó
tôi quyết định ra khỏi hội tam điểm và xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Từ đó tôi
tận hưởng niềm an bình hạnh phúc thật sự.