Trong vòng hai năm, 1993-1995, tôi làm việc tại bãi vứt bỏ các tủ lạnh, máy truyền
hình và máy giặt cũ. Các thợ lượm đồ phế thải, phân chia theo từng loại rồi chở đến
các nhà máy chế biến vật dụng cũ thành chất liệu có thể sản xuất vật liệu mới. Chính
nơi công trường thu lượm đồ phế thải mà tôi làm quen với một phật tử Nam Triều
Tiên, ông Changsu.
Nhờ làm việc với ông, tôi nhận ra hay nói đúng hơn -
thoáng nhận ra chứ không phải kinh nghiệm - thế nào là thuộc ”loại người cùng đinh”
trong xã hội.
Vào năm 1995, ông Changsu cùng tuổi với tôi, 50 tuổi. Khi bắt
đầu làm việc chung, tôi mới biết ông bị cụt tay trái. Công việc khuân vác đâu có dễ
với người chỉ có một tay! Thế mà, ông không lùi bước trước khó khăn.. Khi bạn nghèo
và bạn chỉ có thể kiếm ăn bằng chính sức lực thể xác bạn, thì bạn không đầu hàng trước
bất cứ trở ngại nào. Đó cũng là chí khí anh hùng của ông Changsu.
Trong hai
năm làm việc, tôi trải qua những giờ phút thân tình với ông. Vào ngày hè oi bức, nóng
tới 35 độ, chúng tôi ai nấy bị cháy đen vì nắng. Rồi đến mùa đông lạnh buốt tới xương,
hàn thử biểu chỉ số 10 dưới không độ.. Nhưng bất cứ nắng mưa, thời tiết đổi thay nào,
ông luôn có mặt tại chỗ làm việc. Thỉnh thoảng ông nói với tôi:
- Khi
ở chót cùng nấc thang xã hội, không có chọn lựa nào khác ngoài việc
nai lưng ra làm việc! Mỗi giây phút cuộc đời
là cuộc chiến: chiến đấu để
sống còn và để không bị người
khác chà đạp .. Mặc
dầu gánh chịu nghèo đói và bất hạnh, ông không tỏ ra buồn rầu, chán nản. Ông không
than thân trách phận. Trái lại, ông vui vẻ yêu đời và trí khôn thật thông minh, bén
nhạy. Ông biết đọc chữ Tàu, nên thỉnh thoảng giải thích cho tôi hiểu chữ khắc trên
các máy móc.
Ông Changsu thật là phật tử chân chính. Ông không ăn thịt chó,
món ăn mà người Đại Hàn rất thích, kể cả tôi là dân tây phương. Một lần ông vừa cười
vừa nói với tôi:
- Nếu anh ăn thịt chó, anh sẽ không được vào Niết-Bàn hưởng
cực-lạc!
Ngày hôm sau ông lại nghiêm trang nói với tôi:
- Khi
nào mừng thọ lục tuần, tôi sẽ theo đạo Công
Giáo, như vậy tôi sẽ được
vào Thiên Đàng với anh! Không
hiểu vì lý do gì, ông Changsu rất hãnh diện vì làm việc chung với tôi. Khi những chiếc
xe cam-nhông khổng lồ chở máy móc đến bỏ nơi bãi rác, ông thường nói với các tài xế:
-
Ê, các anh có thấy ông tây mũi cao đứng đằng kia không? Ông là Linh Mục Công Giáo
đó! Có bao giờ các anh thấy các mục sư tin lành làm việc như thế không?
Câu
này ông thường lập lại như câu thần-chú!
Hiện tại tôi không còn làm việc cạnh
ông Changsu nữa. Nhưng chúng tôi vẫn thăm hỏi tin tức qua điện thoại. Tôi không biết
trong tư cách là Linh Mục Thừa Sai Công Giáo, tôi mang lại chứng tá nào cho ông. Phần
tôi, tôi biết rõ điều ông Changsu - phật tử chân chính - mang đến cho tôi. Nơi ông,
tôi học được lòng yêu mến cuộc đời, trong chi tiết nhỏ nhặt nhất. Chẳng hạn, biết
tận hưởng hơi ấm do củi cháy mang lại khi công trường lạnh buốt vào mùa đông. Hoặc
hớp từng ngụm bia lạnh trong buổi trưa hè nóng bức. Nhất là ông dạy tôi bài học yêu
sống và lòng anh dũng chiến đấu để sinh tồn của kẻ bé nhỏ thấp hèn, tàn tật, đôi khi
chỉ có một tay hoặc một chân để lao động!
Khi làm việc cạnh ông Changsu tôi
nghĩ mình gặp lại một Người. Người đó là Đức Chúa GIÊSU thành Nagiarét. Đức Chúa GIÊSU
tự chọn con đường và đời sống của người đơn sơ, khiêm tốn và nghèo nàn. Chính Chúa
cũng là thợ mộc ”cùng-đinh” trong xã hội Do Thái thời bấy giờ. Nhưng chính bằng lối
sống khiêm hạ đó mà Đức Chúa GIÊSU trở thành gương mẫu cho mọi người, từ già đến trẻ,
từ sang đến hèn, từ giàu đến nghèo, từ kẻ trí thức đến người thất học!
Chứng
từ của Cha Emmanuel Kermoal, người Pháp, Linh Mục Hội Thừa Sai Paris. Cha từng
hoạt động tại thủ đô Séoul (Nam Triều Tiên) trong tư cách Linh Mục thợ.
(”Missions
Étrangères de Paris”, n.311, Juillet+Aout/1996, trang 197-199).