BÀ ELISABETH BEHR-SIGEL, THẦN HỌC GIA CHÍNH THỐNG.
Đêm 25 rạng ngày 26-11-2005 cụ bà Elisabeth Behr-Sigel đã êm ái trút hơi thở cuối
cùng tại tư thất ở Epinay-sur-Seine, nơi thủ đô Paris, hưởng thọ 98 tuổi. Cụ bà là
tín hữu và là thần học gia nổi tiếng của Chính Thống Giáo, người Pháp gốc Tchèque.
Cụ sống gần trọn thế kỷ 20 và đã chứng kiến đủ loại thảm cảnh xã hội cũng như chiến
tranh. Nhưng điều đáng chú ý trong cuộc đời cụ bà chính là các hoạt động đại kết,
thần học chính thống và cổ động cho chỗ đứng của phụ nữ giữa lòng Giáo Hội.
Trong
một thời gian dài, bà Elisabeth Behr-Sigel (1907-2005) giữ chức vụ giáo sư nơi 2 Học
Viện Saint-Serge và Công Giáo ở Paris. Bà cũng là phó Chủ Tịch chính thống của Hội
các tín hữu Kitô tranh đấu cho việc bãi bỏ Tra Tấn. Bà đã viết nhiều tác phẩm thần
học chuyên nghiên cứu về nền tu đức chính thống và về chức vụ của nữ giới trong Giáo
Hội. Bà từng tích cực tham gia các buổi học hỏi của Ủy Ban Đại Kết các Giáo Hội Kitô
liên quan đến vai trò của nữ giới và nam giới trong Giáo Hội, vào các năm cuối thập
niên 70 và đầu thập niên 80. Nữ thần học gia chính thống Elisabeth Behr-Sigel còn
là một trong những cột trụ của phong trào đại kết Kitô. Chính bà tự giới thiệu về
nguồn gốc pha trộn nhiều quốc tịch, văn hóa và tôn giáo khác nhau trong đại gia đình
bà như sau.
Nguồn gốc gia đình tôi trải dài từ bờ Đại-Tây-Dương đến rặng Oural
tận bên Sô-Viết. Thân phụ tôi người vùng Alsace nơi giao lưu giữa hai nền văn hóa
và ngôn ngữ Pháp-Đức. Ông nội tôi là sĩ quan Pháp bị quân Đức bắt làm tù binh trong
thời chiến tranh năm 1870. Nhưng sau đó ông nội lại kết hôn với một phụ nữ Đức! Chưa
hết. Đến phiên thân phụ tôi, người kết hôn với một thiếu nữ Tchèque theo Do Thái giáo.
Phần tôi, khi sinh ra, tôi được rửa tội theo truyền thống Tin Lành Luther. Ngay từ
năm lên 7 tuổi tôi đã học đọc và đọc Phúc Âm nơi trường học. Điều này mang tầm mức
quan trọng trong cuộc đời tôi sau này, bởi lẽ nơi gia đình, tôi không hề được nghe
nói hay dạy dỗ gì về tôn giáo.
Vào tuổi dậy-thì 14-15, tôi chịu ảnh hưởng
mạnh bởi Liên Hiệp toàn cầu các Tổ Chức Kitô dành cho giới sinh viên. Tôi tích cực
tham gia vào các sinh hoạt của Hội vì bị thu hút bởi chiều kích đại đồng và đại kết.
Tôi rất thích môn thần học nhưng ước nguyện này không thể thực hiện được, xét vì bối
cảnh học đường và xã hội vào lúc ấy, tức khoảng năm 1925. Vì thế tôi đành chọn môn
triết học. Một thời gian ngắn sau đó, phân khoa thần học của đại học Strasbourg mở
cửa cho nữ giới. Đó là đại học đầu tiên tiếp nhận phụ nữ, có lẽ vì do cơ chế của một
đại học quốc gia và vì Strasbourg nằm gần biên giới Đức quốc.
Thế là, sau
khi học xong 3 năm triết, tôi ghi danh theo học môn thần học Tin Lành ở đại học Strasbourg.
Bầu khí đại học thật tự do, cởi mở và thích thú. Tôi có nhiều bạn học là người Nga
và người Rumani. Thế nhưng tôi không lấy làm thỏa mãn với phương pháp giảng dạy thần
học nơi đây, một phương pháp quá tầm thường. Tôi đành tìm kiếm một cái gì hay hơn,
khác lạ hơn.
Các bạn học người Nga khuyên tôi học tiếng Nga. Tôi nghe lời
nên bắt đầu học tiếng Nga rồi đọc các tác phẩm thần học bằng tiếng Nga của Chính Thống
Giáo. Từ đó tôi làm quen và đi vào thế giới của Chính Thống Giáo. Mãi cho đến năm
1929 tôi làm một bước nhảy vọt. Tôi dời về sống tại Paris. Nơi đây tôi quen biết một
linh mục Chính Thống. Ngài đến để mở một giáo xứ Chính Thống dành cho các tín hữu
chính thống Nga di dân, đang sinh sống tại Pháp. Tôi giã từ Tin Lành Luther và gia
nhập Chính Thống Giáo.
Việc tôi từ bỏ Tin Lành Luther khiến thân phụ tôi rất
buồn lòng. Nhưng biết làm sao hơn, mặc dầu tôi rất quý trọng các ưu điểm của Giáo
Hội Tin Lành Luther. Chẳng hạn như sự kính trọng tự do lương tâm cá nhân. Tuy nhiên,
tôi quyết định vun trồng gốc rễ trong một giáo hội có truyền thống phong phú như Giáo
Hội Chính Thống.
Kinh nghiệm đại kết của tôi bắt đầu trong thời thế chiến
thứ hai, thời mà nước Pháp bị quân đức-quốc-xã chiếm đóng. Chúng tôi họp thành một
nhóm nhóm nhỏ đại kết gồm Công Giáo, Do Thái, Chính Thống và Tin Lành. Chúng tôi dấn
thân hoạt động kháng chiến trong an bình. Nghĩa là, chúng tôi không đặt bom chống
quân Đức, nhưng chúng tôi từ chối cộng tác với quân Đức và chúng tôi cố gắng giúp
đỡ lẫn nhau. Đây là một loại đại kết tuyệt vời như chưa từng bao giờ được thực hiện
cũng như không bao giờ còn trông thấy nữa! Chúng tôi giúp đỡ lẫn nhau, chúng tôi tìm
cách bao che nhau và chúng tôi biết rõ nhau! Ngày nay thì tinh thần đại kết mang một
hình thức khác!
(”Oecuménisme - Informations”, Janvier 2006, trang 11-13).