Sáng ngày 25-1-2006 ĐTC đã tiếp kiến chung hơn 8000 tín hữu và du khách hành hương
trong đại thính đường Phaolô VI. Bên cạnh các đoàn hành hương Tây Âu và Bắc Mỹ có
các đoàn hành hương Động Âu. Từ Á châu có đoàn hành hương Nhật Bản.
Trong
bài huấn dụ ĐTC tiếp tục giải thích phần 2 của thánh vịnh 143. Nhưng trước hết ngài
nhắc đến tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các tín hữu và nói: ”Anh chị em rất thân mến.
Hôm nay kết thúc Tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các tín hữu kitô. Trong tuần này chúng
ta đã suy tư về việc cần thiết phải không ngừng khẩn cầu Thiên Chúa ban cho chúng
ta ơn hiệp nhất trọn vẹn giữa tất cả mọi môn đệ của Chúa Kitô. Thật thế, lời cầu nguyện
góp phần chính yếu vào việc khiến cho dấn thân đại kiết của các Giáo Hội và các giáo
đoàn được chân thành và đem lại nhiều hoa trái phong phú hơn.
Trong buổi gặp
gỡ hôm nay chúng ta muốn lấy lại thánh vịnh 143 mà Phụng Vụ Kinh Chiều đề nghị thành
2 phần khác nhau: phần một các câu từ 1 tới 8 và phần hai từ câu 9 tới 15. Phần hai
của thánh vịnh vẫn giữ nguyên giọng thánh ca và ở đây cũng nổi bật gương mặt của ”Đấng
được xức dầu” nghĩa là Đấng được thánh hiến” tuyệt diệu là Đức Giêsu, Đấng lôi kéo
tất cả mọi người đến với Ngài để khiến cho mọi người trở nên một (x. Ga 17,11-12).
Không phải vô tình mà bài thánh ca sẽ được ghi dấu bằng niềm hạnh phúc, sự thịnh vượng
và hòa bình, là các biểu hiệu đặc thù của thời cứu thế”.
Nói tiếp trong bài
huấn dụ ĐTC khẳng định rằng: chính vì thế, bài thánh ca được định nghĩa là một bài
ca mới, là từ, trong ngôn ngữ kinh thánh, không chỉ gợi lên sự mới mẻ, mà cũng diễn
tả sự tràn đầy cuối cùng đóng ấn cho niềm hy vọng (c. 9). Như thế, người ta ca ngợi
đích điểm của lịch sử, trong đó sự dữ sẽ im tiếng nói, tiếng nói mà tác giả thánh
vịnh miêu tả như là ”dối trá” và ”thề gian”, là các kiểu nói diễn tả sự tôn thờ thần
giả (c. 11). Trong ánh sáng này người ta nói tới các kẻ gian ác, được coi như là những
kẻ áp bức dân Chúa và lòng tin của họ nơi Chúa. Nhưng thay cho khía cạnh tiêu cực
này là chiều kích tích cực lớn lao hơn: đó là chiều kích của một thế giới mới tươi
vui, đang được củng cố. Đó là ”shalom” đích thật, đó là sự hòa bình cứu thế, một chân
trời sáng láng được miêu tả sau đó với một loạt các quang cảnh của cuộc sống xã hội.
Đối với chúng ta các cảnh đó cũng có thể trở thành một lời cầu chúc một xã hội công
bằng hơn được nảy sinh.
Tiếp đến ĐTC liệt kê ra các cảnh xã hội trước hết
là gia đình (c.12), được xây dựng trên sức sống của việc sinh sản con cái. Con trai
là niềm hy vọng của tương lai, được so sánh với cây cối mạnh mẽ vươn cao, con gái
được miêu tả như các cột chống đỡ ngôi nhà, tựa như các cột của một ngôi đền. Từ gia
đình người ta bước sang cuộc sống kinh tế, rồi đến đồng quê với các sản phẩm hoa mầu
được giữ trong kho lẫm, với các đoàn vật tràn ngập khắp đồng quê, và giống bò bê trong
các thửa ruộng mầu mỡ (cc. 13-14). Rồi tác giả hướng cái nhìn tới thành thị, nghĩa
là toàn cộng đoàn dân sự được hưởng ơn cao qúy là hòa bình, và niềm an vui. Thật thế,
các lỗ hổng mà địch thù đã gậy ra cho tường thành trong các lần công hãm, sẽ không
còn nữa; các cuộc xâm chiếm, cướp bóc và đầy ải cũng sẽ hết; và sau cùng sẽ không
còn vẳng tiếng khóc than của những người tuyệt vọng, của nhưng người bị thương, của
các nạn nhân và kẻ mồ côi, là những hậu qủa của chiến tranh (c. 14).
Bức tranh
của một thế giới khác, nhưng có thể thực hiện đó, được giao phó cho công trình của
Đấng Cứu Thế, và cũng là nhiệm vụ của dân Ngài. Tất cả cùng nhau, chúng ta có thể
thực hiện dự án của sự hòa hợp và hòa bình này, bằng cách chấm dứt các hoạt động đánh
phá của hận thù, bạo lực và chiến tranh. Tuy nhiên, cần phải lựa chọn đứng về phía
Thiên Chúa cảu tình yêu thương và công lý. Chính vì thế Thánh vịnh mới kết thúc với
lời chúc lành dành cho dân có Thiên Chúa là Chúa, một dân tộc không từ bỏ lòng tin
và các giá trị tinh thần và luân lý của mình. Một dân tộc có thể cùng với tác giả
thánh vịnh cất lên bài ca mới tràn đầy tin tưởng và hy vọng. Nó nhắc nhớ tới giao
ước mới, đã được các ngôn sứ loan báo (Gr 31,31-34) và đã được thành toàn nơi Đức
Kitô (x. Dt 8,8-12); nó nhắc tới con người mới, tới tâm tình cảm tạ về cuộc sống được
canh tân và cứu độ, tới chính sự mới mẻ là Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài.
ĐTC
đã kết thúc bài huấn dụ bằng cách trích tư tưởng của thánh Agostino và khẳng định
rằng thánh Agostino cũng nhắc nhở chúng ta về điều này khi giải thích thánh vinh 143.
Ngài viết: ”Bạn đừng tưởng rằng ơn thánh đến từ luật lệ, trong khi trên thực tế, nhờ
ơn thánh mà ta có thể chu toàn luật lệ. Vì thế thánh vịnh mới nói: ”Con sẽ gảy đàn
thập huyền cầm”; Trên ”cây đàn thập huyền cầm” có nghĩa là trong luật lệ gồm mười
điều răn. Trong Mười điều răn con sẽ cất cao thánh vịnh mừng Chúa, trong Mười điều
răn con sẽ vui hưởng hạnh phúc nơi Ngài, trong Mười điều răn con muốn hát mừng Chúa
bài ca mới, vì tình bác ái là sự toàn vẹn của luật lệ” (Esposizione sui Salmi 143,16:
Nuova Biblioteca Agostiniana XXVIII, roma 1977, tr. 677).