Chuyến viếng thăm Etiopia của Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo
Hội Đông Phương
Từ ngày mùng 5 tháng 12 vừa qua, Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo
Hội Đông Phương, đã bắt đầu viếng thăm Etiopia. Trong những ngày này ngài đang thăm
viếng một số giáo phận, chủng viện, trường học, các nhà thương và trung tâm bác ái
của Giáo Hội công giáo.
Giáo Hội Etiopia theo nghi lễ Alessandria hiện nay
là một Giáo Hội tự quản gồm một tòa Tổng Giám Mục tại Addis Abeba và bốn giáo phận
tại Eritrea và ba giáo phận tại Etiopia.
Tiếp đón Đức Hồng Y Tổng trưởng tại
nhà thờ chính tòa Addis Abeba có Đức Tổng Giám Mục Addis Abeba và các Giám Mục Đông
Phương cũng như Latinh và các trẻ em. Các em đã hát các bài ca cổ truyền chào mừng
Đức Hồng Y đến thăm Etiopia, quê hương của các em.
Cộng hòa liên bang Etiopia
rộng hơn 1,1 triệu cây số vuông có hơn 91 triệu dân, trong đó có 61,6% theo Kitô giáo,
32,8% theo Hồi giáo và 5,6% theo đạo thờ vật linh. Trong khối kitô Chính Thống chiếm
50,6%, Tin Lành 10,1% đa số thuộc Giáo Hội tin lành Etiope Mekane Yesus, Công Giáo
chiếm 0,9%. Đa số tín hữu chính thống sống tại miền Trung và miền Bắc. Miền nam và
miền tây Etiopia cũng có nhiều tín hữu chính thống và tin lành, trong khi miền nam
gần Somalia có đa số dân theo Hôi giáo. Ngoài ra, cũng có một cộng đoàn Do thái nhỏ
gọi là Falascia, trong tiếng Aramei là Beta Israel, sống trong vùng tây bắc Etiopia,
cả khi 85% tức khoảng 90.000 người đã di cư về Israel trong các năm 1984 với phong
trào “Moshê” và năm 1985 với phong trào “Yoshua”, khi vùng này gặp nạn đói kém, và
với phong trào “Salomon năm 1991 theo sau các vụ xung đột giữa Etiopia và Eritrea.
Một vài học giả Israel cho rằng nhóm do thái này là phần còn lại của một trong 12
chi tộc Israel bị thất lạc.
Etiopia gồm nhiều nhóm chủng tộc khác nhau đông
nhất là Oromo hay Galla chiến 40%, rồi Amhara chiếm 32%. Tiếp đến là Sidama chiếm
9%, Tigrini va Tigrè chiếm 7%, Shankella chiếm 6%, Somali chiếm 6% Afar chiếm 4% Guraghé
chiếm 2% và 1% thuộc các chủng tộc khác.
Tên gọi Etiopia được giải thích nhiều
cách khác nhau. Trong các tác phẩm văn chương Illiade và Odissea người Hy Lạp gọi
Etiopia là vùng đất do người “Aithíôu” ở, nghĩa là những “người mặt cháy”, trong khi
sử gia Erodoto dùng từ Etiopia để gọi các vùng đất ở mạn nam Ai Cập. Trái lại các
nguồn Etiopi cho rằng tên gọi Etiopia do từ “Ityapp’is” ám chỉ dân tộc con cháu của
Cush, con của Ham, là người thành lập thành phố Haksum như viết trong các văn bản
thánh Etiopi. Giả thuyết thứ ba cho rằng tên Etiopia phát xuất tử kiểu nói trong tiếng
của các “Pharao da đen” của Sudan gồm các từ: “et” có nghĩa là sự thật hay hòa bình,
“op” có nghĩa là cao hay bên trên và “bia” là xứ sở hay vùng đất. Như thế Etiopia
là “xứ sở của hòa bình cao nhất”. Vào thời thuộc địa vùng này được gọi lầm lẫn
là Abissinia, đất của người Abissini thuộc chi tộc Habashat từ Arabia di cư tới đây.
Kitô
giáo đã hiện diện tại Etiopia từ 17 thế kỷ qua, khiến cho nước này là quốc gia kitô
duy nhất của lục địa Phi châu. Nó đã để lại các dấu vết sâu đậm trong các cơ cấu gia
đình, xã hội và chính trị của Etiopia, đã giúp người dân nước này kháng cự lại các
áp lực và bách hại bên trong và bên ngoài cho tới năm 1974, khi Etiopia phải sống
dưới chê độ độc tài mác xít kéo dài 17 năm trời, tức cho tới năm 1991.
Kitô
giáo đã bắt đầu tại Etiopia vào đầu thế kỷ thứ IV, khi vương quốc Aksum mở cửa cho
Tin Mừng như sử gia Rufino thành Aquileia (345-411) kể lại trong tác phẩm “Lịch sử
Giáo Hội” của ông. Sách kể rằng có một triết gia nọ người thành Tiro sang Ấn Độ để
học hỏi. Ông đem theo hai người cháu là Edesio và Frumenzio mà ông đã dậy cho các
nghệ thuật tự do. Trên đường về tầu ghé bờ biển Đỏ để tiếp tế nước và lương thực,
nhưng bị dân chúng tấn công, vì họ đang chống lại đế quốc Roma. Thủy thủ đoàn và các
hành khách bị giết hết, chỉ trừ hai thanh niên thoát nạn, nhưng bị bắt làm tù binh
và bị dâng cho vua Etiopia. Trí thông minh và tầm hiểu biết của hai người trẻ khiên
cho nhà vua rất cảm phục nên chỉ định Frumenzio làm thư ký và quan coi kho bạc, còn
Edesio được làm quan ngự tửu có nhiệm vụ nếm và dâng rượu cho vua. Khi nhà vua qua
đời, hai người được trả tự do. Nhưng hoàng hậu nhiếp chính, trong khi chờ đợi hoàng
tử Ezanà còn nhỏ tuổi lớn lên nắm quyền thay vua cha, đã xin Frumenzio và Edesio giúp
bà cai trị nước, Lợi dụng địa vị cao của mình quan Frumenzio tiếp đón các kitô hữu
và tạo điều kiện thuận lợi cho họ rao giảng Tin Mừng và cho kitô hữu có các nơi cầu
nguyện. Khi hoàng tử Ezanà lên ngôi, hai người giã từ triều đình, Edesio trở về Tiro
và chịu các chức thánh. Còn Frumenzio sang Alessandria bên Ai Cập để báo cho Đức Thượng
Phụ Atanasio biết sự bành trướng của Kitô giáo trong vương quốc Aksum bên Etiopia,
và ông xin Đức Cha Atanasio gửi một Giám Mục sang Etiopia để lo lắng cho giáo đoàn
tại đây. Sau khi họp các linh mục lại, Đức Giám Mục Atanasio thảo luận việc này và
trả lời Frumenzio: “Chúng ta có thể tìm được người nào có thần khí của Thiên Chúa
ngự trị trong đó và có thể chu toàn nhiệm vụ đó bằng con?” Và thế là ngài tấn phong
Frumenzio làm Giám Mục và gửi tới Aksum thủ đô của vương quốc Etiopia. Người ta không
biết rõ năm, nhưng biết chắc chắn rằng Atanasio đã được bầu làm Thượng Phụ Alessandria
năm 328 và lần đầu tiên Frumenzio ghé Etiopia là nhiều năm trước đó và lễ tấn phong
Giám Mục xảy ra sau năm 330. Sử gia Rufino còn cho biết Frumenzio rao giảng Tin Mừng
tại vương quốc Aksum trong 20 năm, khiến cho rất nhiều người dân ở đây theo đạo. Có
điều chắc chắn là vào năm 345 vua Ezanà, mẹ vua được rửa tội lấy tên thánh là Sofia
cũng như hoàng gia và triều thần đã theo Kitô giáo. Giám Mục Frumenzio rất được người
dân Aksum kính mến và được gọi là “Abba Salama, người cha hòa bình”, với tưóc hiệu
“Chesatiè Brhan, người mạc khải ánh sáng”. Trong truyền thống Etiopi hai anh em hoàng
tử Ezanà và Sexanà trở thành “Abrahà người soi sáng” và “Atsbhà, người làm cho mặt
trời mọc lên”. Họ là bình minh và ánh sáng của nước Etiopia mới, Etiopia kitô.
Vì
Etiopia là một giáo phận của Giáo Hội ai Cập nên Giám Mục được Thượng Phụ Alessandria
chỉ định và phải là một người Ai Cập. Vị Giám Mục này được gọi là “Abuna Cha chúng
tôi” và có quyền chỉ định các Giám Mục địa phương. Vào đầu thế kỷ thứ V một đan sĩ
Hy lạp là Eutiche, thủ lãnh tinh thần của các tu sĩ Costantinopoli rao giảng lạc
thuyết monofisismo, theo đó nhân tính của Chúa Kitô bị thiên tính thu hút và chỉ có
thiên tính là hiện hữu mà thôi. Công Đồng chung Calcedonia tuyên bố Eutiche lạc giáo
và thiết định rằng nơi Chúa Kitô nhân tính và thiên tính đồng hiện hữu. Vài Giáo Hội
Đông Phương trong đó có Giáo Hội Alessandria không chấp nhận các kết luận của Công
Đồng và tách rời khỏi Giáo Hội Roma. Vì là giáo phận tùy thuộc Alessandria Etiopia
cũng tách rời khỏi Giáo Hội Roma. Trong thế kỷ thứ V Kitô giáo tiếp tục phát triển
cả tại đồng quê do công tác rao truyền Tin Mừng của các đan sĩ tới từ Đông Phương
Kitô. Tuy nhiên, có vài học giả cho rằng “thuyết một bản tính” đã chỉ gia nhập Etiopia
sau này. Một trong các bằng chứng là vua Caleb, cai trị Aksum vào tiền bán thế kỷ
thứ VI, được Giáo Hội công giáo mừng kính như là thánh ngày 27 tháng 10.
Vào
cuối thế kỷ thứ VI vương quốc Aksum suy tàn, và Etiopia mau chóng bị bao vây bởi sự
bành trướng của Hồi giáo, và bị thế giới quên lãng trong một ngàn năm.
Biến
cố các thừa sai dòng Tên đến Etiopia trong hai thế kỷ XVI-XVII khiến cho các hoàng
đế Ze-Dinghil và Susinios theo Công giáo, nhưng chỉ một thời gian ngắn. Tuy nhiên,
các thảo luận giữa các tu sĩ dòngTên với hàng giáo sĩ Etiopia đã làm nảy sinh ra hai
trào lưu thần học: một trào lưu được bênh vực trong các đan viện Goggiam bao gồm vùng
sông Nilo xanh và mạn nam hồ Tana; trào lưu kia trong đan viện Debra Libanos trong
vùng Scioa. Trào lưu Goggiam cho rằng Chúa Kitô đã không được Chúa Thánh Thần xức
dầu nhưng do chính Người, và trong việc hiệp nhất với Ngôi Lời nhân tính của Người
bị thiên tính thu hút. Trào lưu này được gọi là “qebàt” xức dầu và “hulèt liddèt”
hai lần sinh ra, vì thừa nhận sự kiện Chúa Kitô được sinh ra từ đời đời và được sinh
ra từ Đức Trinh Nữ. Trong khi trào lưu Debralibanos cho rằng Chúa Kitô đã được Thiên
Chúa cha xức dầu qua Chúa Thánh Thần và được gọi là “sost liddèt ba lần sinh ra”,
bao gồm lần sinh ra qua việc xức dầu. Nó cũng được gọi là “teuahdò” có nghĩa là “trở
nên một”, vì nhân tính và thiên tính hiệp nhất với việc nhập thể trong một bản tính
gồm thiên tính và nhân tính. Chúa Kitô cũng được gọi là “tseggà ligg” người con của
ơn thánh vì với viêc xức dầu nhân tính của Chúa Kitô được thánh hóa bởi ơn của Chúa
Thánh Thần. Các tranh cãi bất tận nơi hàng giáo sĩ Etiopi liên quan tới việc xức dầu
và bản tính của Chúa Kitô, đôi khi biến thành các cuộc đấu tranh khốc liệt và đẫm
máu, với các trận chiến và các vụ tàn sát toàn đan viện.
Trong dòng lịch
sử khi trào lưu này thắng thế lúc trào lưu kia thắng thế với các cuộc nổi loạn bị
dẹp tan trong máu. Chẳng hạn dưới triều đại vua David III vào phần tư đầu thể kỷ XVIII
tất cả các đan sĩ Debra Linanos đã bị tàn sát. Với biến cố Teodoro II lên ngôi năm
1855 giáo phái Goggiam được coi là quốc giáo, đuợc vua Giovanni IV tái xác nhận và
áp đặt trong Công Nghị Boru Mieda năm 1878. Ít năm sau đó hoàng đế Menelik lên ngôi
chấm dứt các tranh cãi tôn giáo. Vua Menelik rất khoan nhượng và để cho mỗi tín hữu
tự do chọn lựa. Giáo thuyết Debra Libanos trở thành giáo thuyết chình thức của Giáo
Hội Etiopia.
Ngày nay Giáo Hội Etiopia cũng giống các Giáo Hội đông phương
không Calcedonia, tức các Giáo Hội Siri, Armeni khước từ thuyết monofisis một bản
tính duy nhất, và tuyên bố mình là “miafisis”, tức sự hiệp nhất của hai bản tính trong
một bản tính hỗn hợp. Tên gọi chính thức của Giáo Hội Etiopi là Giáo Hội chính thống
Teuahdò Etiopia. “Teuahdò” có nghĩa là “trở thành một”. Ngoàì ra từ năm 1951 Giáo
Hội Etiopia độc lập với Giáo Hội Alessandria với Thượng Phụ là Abuna Basilios. Đức
Thượng Phụ chính thống Etiopia hiện nay là Abuna Paulos.
Trở lại với chuyên
viếng thăm Etiopia của Đức Hồng Y Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương.
Sau lễ nghi chào đón tại nhà thờ chính tòa Đức Hồng Y đã lắng nghe tường trình của
hai nhóm Giám Mục lễ nghi Gheez Alessandria Etiopia và lễ nghi Latinh. Ngỏ lời trong
dịp này ngài chuyển lời chào của Đức Thánh Cha Phanxicô, Giám Mục Roma, người có nhiệm
vụ chủ tọa tình hiệp thông giữa các chủ chăn trong Giáo Hội. Mục đích chuyến viếng
thăm của Đức Hồng Y là để đáp lễ chuyến viếng thăm của các Giám Mục Etiopia hồi tháng
5 năm nay tại Roma. Vượt trên mọi hiểu lầm hay chia rẽ, thiếu sót và tội lỗi, điều
duy nhất nối kết mọi người là niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế, và mầu nhiệm hiệp
thông của các Thánh ở nguồn gốc đức tin của dân nưóc Etiopia. Chẳng hạn thánh Frumenzio
được thánh Atanasio tấn phong Giám Mục, thánh sử Marcô môn đệ của thánh Phêrô, người
đã rao giảng Tin Mừng và thành lập Giáo Hội tại Alesssandria, cho tới các thừa sai
và thánh Giustino de Jacobis, qua bao nhiêu vui buồn sướng khổ và khó khăn, là những
người đã khiến cho Tin Mừng được đâm rễ sâu trong lòng đất Etiopia, cả khi Giáo Hội
công giáo hiện nay chỉ là một thiếu số nhỏ nhoi đi nữa. Nhưng sự kiện này đòi hỏi
chúng ta phải dấn thân mạnh mẽ hơn nữa để tái lập sự hiệp thông giữa các Giáo Hội.
Kỷ niệm 50 thành lập hàng Giáo phẩm Etiopia là dịp tốt để ôn lại lich sử từ đó đến
nay.
Tiếp đến Đức Hồng Y Sandri đã nhắc tới ba tài liệu của Công Đồng Chung
Vaticăng II là Hiến chế về Giáo Hội Lumen gentium, sắc lệnh về các Giáo Hội Đông Phưong,
và sắc lênh về đại kết Unitatis Redintegratio. Để là ánh sáng muôn dân cần tái khám
phá ra vai trò của các chứng nhân sống động của truyền thống tông đồ, và tất cả mọi
Giáo Hội Đông Phương phải cùng nhau dấn thân trên con đường tái lập sự hiệp nhất.
Việc đọc lại các tài liệu Công Đồng có thể là điểm quan trọng giúp kiểm thực các hướng
đi cho tới nay và tránh các vấn đề có thể làm lạc hướng khiến quên đi sự tuỳ thuộc
Giáo Hội, hay các gốc rễ, qua đó chúng ta nhận được nhựa sống, hay quên đi nhiệm vụ
phải cùng nhau làm chứng cho Chúa. Ký ức kitô thôi thúc chúng ta kiểm thực khả năng
đem Chúa đến cho mọi người. Vượt qua các lỗi lầm lịch sử đã phạm trong qúa khứ
vì các hiểu lầm hay các quan niệm khác nhau về Giáo Hội, bổn phận rao giảng Tin Mừng
là một quyền không thể hủy bỏ được. Sắc lệnh về truyền giáo Ad gentes cũng như các
tài liệu Evangelii Nuntiandi của Đức Phaolô VI, Redemptoris Misio của Đức Gioan Phaolô
II và Evengelii gaudium của Đức Phanxicô là các nguồn gọi hứng phong phú cho công
tác rao truyền Tin Mừng và đồng hành với các cộng đoàn kitô, cũng như cho việc cộng
tác giữa các Giám Mục Đông phương và các Giám Mục Latinh. Mọi người đều được mời gọi
dấn thân trong nhiều lãnh vực khác nhau từ đào tạo giới trẻ qua việc giảng dậy giáo
lý, cho tới việc thăng tiến đại học công giáo thánh Toma Aquino, lo lắng cho người
di cư, trợ giúp các tín hữu Etiopi sống tại nước ngoài, thu thập các dữ liệu thống
kê. Mọi công tác mục vụ đều phải có chiều kích hòa giải.
Tiếp theo đó Đức
Hồng Y đã bước sang phòng hội của Trung tâm mục vu, để cùng các Giám Mục kết thúc
đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm Etiopia.
Ngày mùng 6 tháng
12 Đức Hồng Y Sandri đã chủ sự thánh lễ và gặp gỡ hàng giáo sĩ tu sĩ Etiopi trong
nhà thờ chính toà Addis Abeba. Giảng trong dịp này Đức Hồng Y đã để lại ba từ chìa
khóa và các suy tư rút tỉa ra từ các giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô: niềm vui
phát xuất từ đức Tin; lòng can đảm làm chứng tá trong mọi môi trường cuộc sống, từ
bỏ kiểu sống kitô vô danh; và sống sự hiệp thông sâu xa dựa trên lời cầu nguyện và
tình liên đới với tha nhân, đặc biệt những người túng thiếu nhất. Đức Hồng Y đã khich
lệ mọi người noi gương sống bác ái thánh thiện của Mẹ Maria, cũng như gương của các
thánh Frumenzio, Giustino de Jacobis và chân phước Gabriel đã chịu nhiều khổ đau khốn
khó để rao truyền Tin Mừng, giơ tay lên để cầu nguyện và giang tay ra để trợ giúp
dân nghèo và hòa giải với tha nhân.
Ngày 11 tháng 12 Đức Hồng Y Sandri gặp
gỡ Đức Thượng Phụ Abune Mathias, Giáo chủ Chính Thống Copte Etiopia và chào thăm tổng
thống Cộng Hòa Liên Bang Etiopia.