Tường thuật ngày thứ ba chuyến Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ
Sáng Chúa Nhật 30 tháng 11 hôm qua Đức Thánh Cha đã chỉ có ba sinh hoạt :đó là cuộc
gặp gỡ Đại Rabbi Thổ Nhĩ Kỳ Isak Hadeva, tham dự Thánh lễ kính thánh Anrê Tông Đồ,
Bổn Mạng Giáo Hội Chính Thống, trong nhà thờ thánh Giorgio của Tòa Thượng Phụ Costantinopoli
và gặp gỡ các bạn trẻ di cư trong vườn tru sở đại diện Tòa Thánh. Sau đây là chi tiết
các sinh hoạt của Đức Thánh Cha.
Lúc 7 giờ rưỡi sáng Đức Thánh Cha đã dâng
thánh lễ riêng tại trụ sở đại diện Tòa Thánh tại Istanbul. Sau đó lúc 9 giờ Đức Thánh
Cha đã tiếp kiến Đại Rabbi Thổ Nhĩ Kỳ Isak Hadeva. Đại Rabbi Hadeva đã được bầu làm
”Hashambashi” vào tháng 12 năm 2002. Tước hiệu ”Hahambashi” gồm từ Thổ ”thủ lãnh”
và từ do thái ”khôn ngoan”. Biến cố người Do thái sang sinh sống tại Thổ Nhĩ Kỳ bắt
đầu từ thời tòa án dị giáo bên Tây Ban Nha năm 1492. Vào đầu thế kỷ XIX người số người
Do thái tại Thổ Nhĩ Kỳ được 100 ngàn. Nhưng với các cuộc di cư sang Mỹ và sang Israel
con số này giảm sút rất nhiều. Hiện nay cộng đoàn do thái tại Thổ Nhĩ Kỳ chỉ bao gồm
25 ngàn người và là cộng đoàn do thái lớn thứ hai trong một nước hồi giáo, sau cộng
đoàn do thái bên Iran. Đa số tín hữu do thái sống tại Istanbul, nhưng cũng có một
số sống tại Izmir. Đại Rabbi Isak Hadeva đã gặp Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong trụ
sở Tòa Thánh ở Istanbul hồi năm 2006.
Sau khi tiếp vị đại Rabbi Isak Hadeva
Đức Thánh Cha đi xe tới Tòa Thượng Phụ Đại Kết nằm cách đó 5 cây số để tham dự thánh
lễ kính Thánh Anrê Tông Đồ, Bổn Mạng Giáo Hội Chính thống Costantinopoli, do Đức Thượng
Phụ Bartolomaios I chủ sử trong nhà thờ thánh Giorgio.
Nhà thờ thánh Giorgio
tọa lạc ngay bên cạnh Tòa Thượng Phụ đã có từ năm 1720 nhưng không có mái tròn, theo
lệnh của nhà nước Thổ kể từ năm 1453 khi thành phố bị đế quốc Ottoman đánh chiếm,
vì chỉ có các đền thờ hồi giáo mới có quyền có các tháp theo truyền thống hồi. Nhà
thờ có giá trị nghệ thuật tông giáo rất lớn. Ngai của Đức Thượng Phụ được chạm trổ
bằng ngà thuộc thời Bisantin sau này. Nhà thờ cất giữ một số thánh tích của vài thánh
nữ được tôn kình nhất trong thành Costantinopoli cổ xưa như thánh Eufemia vùng Calcedonia.
Nhà thờ cũng cất giữ một phần xương các thánh Gregorio Thần học gia và thánh Gioan
Kim Khẩu, được giao trả cho Đức Thượng Phụ Bartolomaios I ngày 27 tháng 11 năm 2004.
Phụng vụ kính thánh Anrê Tông Đồ đã bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi sáng. Phụng vụ giữ một
vai trò rất quan trọng trong đời sống Giáo Hội chính thống, vì nó diễn tả thần học.
Chính nhờ thần học trong phụng vụ mà Giáo Hội chính thống sống còn và duy trì được
căn tính của mình giữa bao nghịch cảnh lịch sử, như dưới thời đế quốc Ottoman kéo
dài từ năm 1453 cho tới năm 1921. Phụng vụ thánh bisantin chung cho tất cả mọi Giáo
Hội theo truyền thống bisantin, chính thống cũng như công giáo của Hy lạp, và vùng
Trung Đông, Đông Âu và Nam Italia. Cũng giống như việc cử hành của các Giáo Hội Đông
Phương, việc cử hành Phụng Vụ Bisantin hướng về phía Đông, là phía mặt trời mọc, biểu
tượng cho Chúa Kitô. Vị linh mục chủ tế và tín hữu hướng về phía Đông, nơi một ngày
kia Chúa Kitô sẽ tới trong vinh quang của Người. Thánh phụng vụ bissantin gồm ba phần:
việc chuẩn bị của linh mục, bánh rượu; phụng vụ của các Tân tòng tức phụng vụ Lời
Chúa, và phụng vụ của các tín hữu.
Đức Thánh Cha đã được Đức Thượng Phụ Bartolomaios
I tiếp đón và đưa vào bên trong nhà thờ. Bài đọc một trích từ thư thứ I thánh Phaolô
gửi tín hữu Côrintô chương 4 câu 9 tới 16 đề cập tới các gian nan khốn khó và khổ
đau mà thánh Phaolô và các cộng sự viên của mgài phải chịu vì Đức Kitô. Phúc Âm là
trình thuật chương 1 thánh Gioan kể lại ơn gọi của Gioan và Anrê. Anrê giới thiệu
anh mình là Phêrô với Chúa Giêsu. Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Hy lap.
Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Lậy Cha bằng tiếng Latinh. Vào cuối buổi cử hành phụng vụ
Đức Thượng Phụ đã đọc diễn văn bằng tiếng Hy Lạp. Ngài nói:Thưa Người Anh em rất thánh
và rất yêu mến trong Chúa Kitô, Phanxicô, Giám Mục của Roma Cổ Xưa. Chúng tôi vinh
danh và chúc tụng Thiên chúa Ba Ngôi đã khiến cho chúng tôi có được niềm vui vì sự
hiện diện của Đức Thánh Cha năm nay trong dịp lễ kính nhớ Thánh Anrê Tông Đồ, Vị Đầu
Tiên Được Gọi, Người thành lập Giáo Hội chúng tôi. Với tình yêu sâu xa và vinh dự
lớn lao chúng tôi ôm hôn Đức Thánh Cha và trao ban nụ hôn của hòa bình và tình yêu:
”Ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô ở cùng Ngài”
(Rm 1,7). ”Thật thế, tình yêu của Chúa Kitô thôi thúc chúng ta” (2 Cr 14-15).
Đức Thượng Phụ đã nhắc tới cuộc gặp gỡ của hai người mới đậy tại Giêrsuralem, nhân
kỷ niệm 50 năm cuộc gặp gỡ của Đức Athenagoras và Đức Gioan Phaolô VI tại Thánh Địa.
Chính nhờ cuộc gặp gỡ ấy mà dòng lịch sử đã đôi hướng, các con đường song song, và
đôi khi đối nghịch nhau, của các Giáo Hội chúng ta đã gặp nhau trong ước mơ chung
tìm lại sự hiệp nhất đã đánh mất, tình yêu nguội lạnh đã được thắp sáng lên và ý chí
làm tất cả những gì có thể để sự hiệp thông trong đức tin và Chén Thánh chung được
tái mạnh mẽ. Từ đó mở ra con đường tiến về Emmaus, dài và đôi khi cam go, có Chúa
vô hình đồng hành và tự mạc khải cho chúng ta ”trong việc bẻ bánh” (Lc 24,25). Tất
cả các người kế vị các vị hướng đạo được linh hứng đó đã đi trên con đường này, bằng
cách thành lập, chúc lành và nâng đỡ cuộc đối thoại của tình yêu và sự thật giữa các
Giáo Hội chúng ta, nhằm cất đi các chướng ngại chồng chất suốt một ngàn năm trong
các tương quan giữa chúng ta, cuộc đối thoại giữa các anh em, chứ không phải một thời
giữa các đối thủ, với sự chân thành, bằng cách phân phát lời chân lý, nhưng cũng tôn
trong nhau như anh em.
Tiếp đến Đức Thượng Phụ nhắc tới truyền thống tốt lành
đã có từ nhiều thập niên qua: đó là sự kiện hai Giáo Hội gửi các phái đoàn tham dự
lễ Bổn Mạng của nhau tại Costantinopoli và Roma. Niềm tin chung nơi Đức Giêsu Kitô
Cứu Thế đã được sống bởi các Nghị Phụ của hai Giáo Hội, tụ họp lại từ đông phương
và tây phương trong các Công Đồng Chung, để lại như gia tài cho các Giáo Hội của chúng
ta như là nền tảng không thể sụp đổ của sự hiệp nhất. Niềm tin mà chớng ta đã cùng
nhau duy trì bên đông phương và bện tây phương đó trong một ngàn năm, chúng ta lại
tái được mời gọi đặt làm nền tảng của sự hiệp nhất. Với thánh PhaolÔ chúng ta hãy
vượt qua ”bằng cách quên đi những gì ở đàng sau và hướng tới những gì ở phía trước”
(Pl 3,14)... Bởi vì sư trung thành của chúng ta với qúa khứ có ích gì, nếu nó không
có nghĩa gì đối với tương lai? Khoe khoang những gì chúng ta đã nhận lãnh có ích gì,
nếu tất cả những điều đó không được thể hiện ra trong cuộc sống đối với con người
và thế giới ngày nay và ngày mai? ”Chúa Kitô vẫn luôn là một, hôm qua hộm nay và như
vậy mãi mãi đến muốn đời” (Dt 13,8-9) Và Giáo Hội của Người đươc mời gọi có cái nhìn
không phải hướng tới hôm qua, nhưng hướng tới hôm nay và ngày mai. Giáo Hội hiện hữu
cho thế giới và con người chứ không phải cho chính mình. Nhưng khi nhìn vào hôm nay
chúng ta không thể không lo âu cho ngày mai. ”Các trận chiến từ bên ngoài, lo sợ ở
bên trong” (2 Cr 7,6). Nhận xét của Tông Đồ Phaolô cũng hoàn toàn có giá trị đối với
chúng ta ngày nay. Bởi vì trong suốt thời gian chúng ta dấn thân trong các cuộc tranh
cãi, thế giới sống nỗi sợ hãi sống còn và âu lo cho ngày mai. Làm sao nhân loại ngày
nay bị xâu xé bởi các chia rẽ, xung đột và thù nghịch, đôi khi nhân danh Thiên Chúa,
có thể sống sòn? Sự giầu có của trái đất sẽ được phân chia cách đồng đều ra sao để
ngay mai nhân loại không sống kiếp nô lệ tồi tệ hơn? Các thế hệ mai sau sẽ tìm thấy
hành tinh nào để ở, khi con người thời nay tham lam tàn phá nó không thương tiếc,
và không thể sửa chữa được? Nhiều người ngày nay đăt hy vọng nơi khoa học. Những người
khác hy vọng nơi chính trị, người khác nữa hy vọng nơi kỹ htuật. Nhưng không có ai
có thể bảo đảm cho tương lai, nếu con ngưới khộng tiếp nhận sứ điệp của sự hòa giải,
của tình yêu thương và của công lý, sứ điệp chấp nhận tha nhân, chấp nhận sự khác
biệt, chấp nhận cả kẻ thù nữa. Giáo Hội Chúa Kitô là người đầu tiên đã giảng dậy gà
sống sứ điệp đó có bổn phận áp dụng trước hết cho chính mình ”để thế giới tin” (Ga
17,12). Chính vì thế thôi thúc hơn bao giờ hết con đường tiến về hiệp nhất giữa những
người kêu cầu danh của Đấng Vĩ Đại tạo dựng hòa bình. Chính vì thế trách nhiệm của
kitô hữu chúng ta lớn hơn trước mặt Thiên Chúa, con người và Lịch sử.
Tiếp
tục bài diễn văn Đức Thượng Phụ ca ngợi Đức Thánh Cha Phanxicô, tuy mới được bầu làm
Thủ Lãnh Giáo Hội Roma nhưng đã giảng dậy với các diễn văn, nhưng nhất là với sự đơn
sơ, khiếm tốn và tình yêu đối với mọi người. Ngài linh hứng sư tin cậy nơi những kẻ
nghi ngờ, niềm hy vọng cho những kẻ thất vọng, sự chờ mong nơi những người trông đợi
một Giáo Hội yêu thương tất cả mọi người. Và ngài cống hiến cho các anh em Chính thống
niềm hy vọng trong thời ngài sự xích lại gần nhau giữa hai Giáo Hội cổ xưa sẽ tiếp
tục được xây dựng trên các nền tảng vững chắc của truyền thống chung, đã luôn luôn
tôn trong và thừa nhận trong thân mình Giáo Hội một quyền tối thượng của tình yêu,
danh dự và phục vụ, trong khung cảnh của tính thượng hội đồng giám mục, để ”cùng một
miệng và môt tim duy nhất” tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi và đổ đầy tình yêu của Người
trên thế giới.
Kính thưa Đức Thánh Cha, hôm nay Giáo Hội Costantinopoli tiếp
đón Ngài với tình yêu và danh dự, cũng như với sự thừa nhận sâu xa rằng mình mang
trên vai một trách nhiệm đối vời hiện tại và tương lai. Với trách nhiệm đó chúng tôi
đang cấp bách làm việc để chuẩn bị chu đáo cho Thánh Đại Công Nghị của Giáo Hội Chính
Thống vào năm 2016. Chúng tôi xin lời cầu nguyện của Ngài cho sự thành công của nó.
Rất tiếc sự bẻ gẫy ngàn năm hiệp thông thánh thể giữa các Giáo Hội chúng ta chưa cho
phép việc triệu tập một Công Đồng Đại Kết, chúng ta hãy cầu nguyện để một khi sự hiệp
thông trọn vẹn được tái lập, ngày trọng đại và quan trọng ấy không chậm đến. Cho tới
nay chúng ta mới chỉ tham dự vào cuộc sống công nghị của nhau bằng cách gửi các quan
sát viên, và chúng tôi cũng hy vọng có phái đoàn của Giáo Hội Công giáo tham dự Thánh
Đại Công Nghị sắp tới của chúng tôi. Các vấn đề mà lịch sử dấy lên trước các Giáo
Hội bắt buộc chúng ta phải thắng vượt cuộc tranh cãi và cộng tác với nhau chặt chẽ
chừng nào có thể để đương đầu với chúng. Sự hiệp nhất mà chúng ta cổ võ đã đươc hiện
thực trong vài miền qua sự tử đạo. Vì thế chúng ta hãy cùng nhau giơ tay ra cho con
người thời đại, bàn tay của một Đấng duy nhất có thể cứu nó qua Thập Giá và sự sống
Lại của Người.
Đáp lới Đức Thượng Phụ Bartolomaios Đức Thánh Cha Phanxicô
nói khi còn là Tổng Giám Mục Buenos Aires ngài đã nhiều lần tham dự lễ nghi phụng
vụ của cộng đoàn chính thống, nhưng buổi cử hành kính thánh Anrê Tông Đồ, Người đầu
tiên trong những kẻ đươc kêu gọi và là em của thánh Phêrô, Bổn Mạng Tòa Thượng Phụ
Đại Kết trong nhà thờ thánh Giorgio là một ơn đặc biệt Chúa ban. Gặp gỡ nhau, nhìn
vào mặt nhau, trao đổi vòng tay ôm hôn bình an, cầu nguyện cho nhau là các chiều kích
nòng cốt của con đường tiến tới chỗ tái lập sự hiệp thông trọn vẹn mà chúng ta đang
hướng tới. Tất cả những điều đó đồng hành với cuộc đối thoại thần học. Một cuộc gặp
gỡ đích thật luôn luôn là một cuộc gặp gỡ giữa các bản vị con người với một tên gọi,
một gương mặt một lịch sử, chứ không phải chỉ là một đối chiếu các tư tưởng. điều
này đặc biệt đúng đối với các kitô hữu, vì đối với chúng ta chân lý là con người của
Đức Giêsu Kitô. Gương của thánh Anrê Tông Đồ, cùng với một môn đệ khác tiếp nhận lời
Thấy Chí Thánh mời gọi: ”Hãy đến và xem” và ”ngày hôm đó họ ở lại với Người” (Ga 1,39)
cho chúng ta thấy rõ ràng là cuộc sống và việc loan báo kitô là một kinh nghiệm bản
thân, một cuộc gặp gỡ biến đổi với Đấng yêu thương chúng ta và muốn cứu rỗi chúng
ta. Tông Đồ Anrê đã găp anh mình là Phêrô báo cho ông biết mình đã gặp Đấng Cứu Thế
và dẫn ông tới với Chúa Giêsu. Cuộc đối thoại giữa các kitô hữu cũng không thể tránh
cái luận lý của cuộc gặp gỡ cá nhân đó. Không phải vô tình mà con đường hòa giải
và hòa bình giữa các tín hữu công giáo và chính thống đã được khai mào bởi một vòng
tay ôm hôn giữa các vị tiền nhiệm đáng kính của chúng ta là Đức Athenagoras và Đức
Phaolô VI tại Giêrusalem cách đây 50 năm. Đức Thánh Cha cũng nhắc tới kỷ niệm 50 năm
công bố Đức lệnh của Công Đồng Chung Vaticăng II về hiệp nhất ”Unitatis redintegratio”,
mở ra một con đường mới cho cuộc gặp gỡ giữa các tín hữu công giáo và các anh em của
các Giáo Hội và cộng đoàn kitô khác. Với Sắc lệnh này Giáo Hội công giáo thừa
nhận rằng các Giáo hội chính thống ”có các bí tích đích thật và nhất là nhờ sức mạnh
của việc kế vị các Tông Đồ, Chức Linh Mục và bí tích Thánh Thể, qua đó vẫn còn hiệp
nhất với chúng ta bởi các mối dây chặt chẽ” (UR 15). Tài liệu khẳng định rằng để trung
thành giữ gìn truyền thống kitô tràn đầy và hoàn thành sự hòa giải giữa các tín hữu
kitô đông phương và tây phương thật là rất quan trọng duy trì và nâng đỡ gia tài vô
cùng phong phú của các Giáo Hội Đông Phương, không phải chỉ đối với các truyền thống
phụng vụ và tinh thần, mà cả các luật lệ giáo hội đã được các nghị phụ các Công Đồng
phê chuẩn để quy định cuộc sống của các Giáo Hội đó (UR 15-16).
Tiếp tục bài
phát biểu Đức Thánh Cha nhấn mạnh viêc tôn trọng nguyên tắc này như điều kiện chính
yếu và song phương nhằm tái lập sự hiệp thông trọn vẹn. Nó không có nghĩa là người
này quy phục người khác, cũng không phải là sự thu hút, nhưng là tiếp nhận mọi ơn
mà Thiên Chúa đã ban cho từng người để biểu lộ cho toàn thế giới mầu nhiệm cứu độ
lớn lao mà Chúa Kitô đã thực hiện qua Chúa Thánh Thần. Và Đức Thánh Cha khẳng định
như sau:
Tôi muốn bảo đảm với từng người trong anh em rằng, để đạt tới đích
ước mong của sự hiệp nhất trọn vẹn, Giáo Hội công giáo không có ý áp đặt bất cứ đòi
hỏi nào, nếu không phải lá đòi hỏi tuyên xưng đức tin chung, và rằng chúng tôi sẵn
sàng, dưới ánh sáng giáo huấn của Thánh Kinh và kinh nghiệm của ngàn năm thứ nhất,
cùng nhau tìm kiếm các mô thức, qua đó bảo đảm sự hiệp nhất cần thiết của Giáo Hội
trong các hoàn cảnh hiện nay: điều duy nhất mà Giáo Hội công giáo ước mong và tôi
tìm kiếm như là Giám Mục Roma, là ”Giáo Hội chủ sự trong tình bác ái”, đó là sự hiệp
thông với các Giáo Hội chính thống. sự hiệp thông này đã luôn luôn là hoa trái của
tình yêu thương, tình yêu thương huynh đệ diễn tả mối dây tinh thần và siêu việt hiệp
nhất chúng ta như các môn đệ của Chúa. Tiềp đến Đức Thánh Cha đề cập đến các vấn
đề của thế giới đòi hỏi các kitô hữu phải có câu trả lời chung. Trước tiên là tiếng
kêu của dân nghèo. Trong thế giới ngày nay có qúa nhiều người sau khổ vì thiếu dinh
dưỡng trầm trọng, vì nạn thất nghiệp gia tăng, vì số phần trăm người trẻ không có
công ăn việc làm cao, vì hiện tượng gạt bỏ bên lề xã hội gia tăng, có thể dẩn đưa
tới nạn tội phạm và cả việc tuyển chọn các người khủng bố. Người trẻ không chỉ xin
chúng ta trợ giúp vật chất cần thiết trong biết bao nhiêu hoàn cảnh, nhưng nhất là
họ xin chúng ta giúp họ bảo vệ phẩm giá là người của họ, làm sao để họ có thể tìm
lại được nghị lực tinh thần để đứng dậy và tài trở thành các tác nhân lịch sử của
họ. Ngoài ra họ còn xin chúng ta chiến đấu, dưới ánh sáng Tin Mừng, chống lại các
lý do cơ cấu gây ra cảnh nghèo túng: sự bất bình đẳng, thiếu nột việc làm xứng đáng,
thiều đất canh tác, thiếu nhà ở, sự khước từ các quyền xã hội và công ăn việc làm.
Như là kitô hữu chúng ta đựợc mời gọi cùng nhau đánh bại sự toàn cầu hóa thờ ơ, ngày
nay xem ra đang thống trị, và xây dựng một nền văn minh tình thương và liên đới mới.
Tiếng kêu thứ hai là của nạn nhân các vụ xung đột trong biết bao nhiểu phần đầt của
thế giới này. Tiếng kêu này chúng ta nghe vang lên rất rõ từ đây, vì vài quốc gia
lân cận đang phải sống trong một cuộc chiến tàn khốc và vô nhân. Quấy phá hòa bình
của một dân tộc, phạm tội bạo hành hay cho phép mọi loại bạo lực, đặc biệt chống lai
các người yếu đuối không được bênh đỡ, là một tội rất trầm trọng chống lại Thiên Chúa,
vì nó có nghĩa là không tôn trọng hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người. Tiếng kêu
của các nạn nhân chiến tranh thúc đẩy tín hữu công giáo va chính thống tiến bước nhanh
trên con đường hòa giải và hiệp thông.
Tiếng kêu thứ ba là tiếng kệu của giới
trẻ. Rất tiếc ngày nay có biết bao người trẻ sống không hy vọng, thất bại vì không
tin tưởng và chịu trận. Nhiều người bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa thống trị, chỉ tìm
niềm vui trong chiếm hữu của cải vật chất và thỏa mãn các xúc cảm nhất thời. Các thế
hệ mới sẽ không bao giờ chiếm hữu được sự khôn ngoan đích thực và duy trì sống động
niềm hy vọng, nếu chúng ta không có khả năng đánh giá và thông truyền cho họ một nền
nhân bản đích thực, vọt lên Tin Mừng và kinh nghiệm ngàn đời của Giáo Hội. Chính các
người trẻ - và tôi nghĩ tới đông đảo các bạn trẻ chính thống, công giáo và tin lành
tham dự các cuộc hội họp quốc tế do cộng đoàn đại kết Taizé tổ chức - họ xin chúng
ta tiến bước tới sự hiệp thông trọn vẹn. Và như thế không phải là họ không biết các
khác biệt còn chia rẽ chúng ta, nhưng bởi vì họ biết nhìn xa hơn, họ có khả năng tiếp
nhận điều nòng cốt đã hiệp nhất chúng ta. Chúng ta đã ở trên đường tiến về sự hiệp
thông trọn vẹn và có thể sống các dấu chỉ hùng hồn pua một sự hiệp nhất thực sự...
Và chúng ta chắc chắn rằng dọc dài con đường này chúng ta được nâng đỡ bởi sư bầu
cử của Tông Đồ anrê và anh Người là Phêrô, được truyền thống coi là các người thành
lập các Giáo Hội Costantinopoli và Roma. Chúng ta hãy khẩn nài Thiên Chúa ban cho
ơn lớn lao của sự hiệp nhất trọn vẹn và đừng quên Cầu nguyện cho nhau.
Tiếp
đến Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ đã lên bao lơn Tòa Thượng Phụ và ban phép lanh
cho tín hữu. Đức Thánh Cha ban phép lành bằng tiếng Latinh, Đửc Thương Phụ ban phép
lành bằng tiếng Hy lạp. Rồi hai vị hôn nhau và nắm lấy tay nhau giơ lên chào tín hữu.
Hai vi đã ký vào tuyên ngôn chung khẳng định ước muốn tiếp tục cùng nhau tiến bước
để vượt thắng các chướng ngại còn chia rẽ hai Giáo Hội, cũng cố các nỗ lực thăng tiến
sự hiệp nhất giữa mọi kitô hữu, nhất là giữa các tín hữu công giáo và chính thống;
ủng hộ cuộc đối thoai thần học của ủy ban quốc tế do Đức Dimitrios và Đức Gioan Phaolô
II thành lập cách đây 35 năm tại Fanar. Ủy ban đang thảo luận các vấn đề khó khăn
nhất chia rẽ hai Giáo Hội cần được chú ý đào sâu.
Hai vi cũng bầy tỏ lo âu
đối với tình hình tại Irak, Siria và toàn vùng Trung Đông, ước mong hòa bình và ổn
định cũng như muốn thăng tiến giải pháp cho các xung đột qua sự đối thoại và hòa giải.
Hai vị kêu gọi tất cả các giới hữu trách đối với số phận của các dân tộc gia tăng
dấn thân hoạt động để cho những người khổ đau, gồm cả các tín hữu kitô, được ở lại
trong quê hương của họ. Không thể chấp nhận một Trung Đông không có các kitô hữu đã
tuyên xưng danh Chúa Giêsu trong hai ngàn năm qua. Xem ra người ta đã đánh mất đi
giá trị của sự sống con người, và con người không còn quan trọng bị sát tế cho các
lợi lộc khác, trước sự thờ ơ của nhiều người. Một chi thể khổ đau thì toàn thân mình
khổ đau. đó là luật của cuộc sống kitô, vì cũng có sự đại kết trong khổ đau nữa. Máu
các vi tử đạo là hạt giống của sức mạnh và sự phong phú của Giáo Hội, việc chia sẻ
các khổ đau thường ngày cũng là một dụng cụ hữu hiệu của sự hiệp nhất. Tình hình khủng
khiếp của vùng Trung Đông đòi buộc lời cầu nguyện và sự dấn thân của cộng đoàn quốc
tế, cũng như tình liên đới của tất cả mọi người thiện chí. Tuyên ngôn cũng thừa nhận
tầm quan trong của việc thăng tiến đối thoại với Hồi giáo, dựa trên sự tôn trọng và
tình bạn. Tín hữu kitô và hồi giáo được mời gọi cùng nhau hoạt động cho công lý, hòa
bình, tôn trộng phẩm giá và các quyền của mỗi người, đặc biệt tại các vùng ho đã chung
sống hòa bình trong bao nhiêu thế kỷ qua và giờ đây chịu đau khổ vì các lầm lạc của
chiến tranh. Tuyên ngôn mời gọi tất cả mọi vị lãnh đạo tôn giáo tiếp tục củng cố cuộc
đối thoai liên tôn, và làm mọi sự có thể để xây dựng một nến văn hóa hòa bình và liên
đới giữa mọi người và mọi dân tộc. Các vị đặc biệt cầu nguyện cho hòa bình tại Ucraina
và kêu gọi các phe lâm chiến tìm đối thoại và tÔn trọng công pháp quốc tế, để chấm
dứt xung khắc và cho nhân dân Ucraina được sống trong hòa hợp. Sau cùng hai vị phó
thác tín hữu của mọi Giáo Hôi trên toàn thế giới cho Chúa Kitộ Cứu Thế, để họ là các
chứng nhân không mỏi mệt của tình yêu Ngài, và nâng lời cầu xin Thiên Chúa ban ơn
an bình, trong tình yêu và sự hiệp nhất cho toàn gia đình nhân loại.
Đức
Thánh Cha và vài thành viên đoàn tùy tùng đã cùng với Đức Thượng Phụ dùng bữa trưa
trên lầu ba. Sau đó ngài trở về trụ sở đại diện Tòa Thánh nghỉ ngơi chốc lát. Lúc
16 giờ chiều ngài chào 50 học sinh tỵ nạn của trung tâm Salesien trong vườn của trụ
sở. Các em thuộc nhiều nước vùng Trung Đông cũng như Thỗ Nhĩ Kỳ và Phi châu, đại diện
cho 600 em do các tu sĩ Don Bosco trông coi.
Đức Thánh Cha nói ngài biết các
khổ đau và thiếu thốn mà các người ty nạn như các em phải chịu. Các em không chỉ mất
mát vật chất, mà cả sự tư do, phải xa cách gia đình, mất đi môi trường cuộc sống và
các truyền thống văn hóa và phải sống trong các điều kiện không thể chịu đựng nổi.
Ngài kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp giải quyết các cuộc xung đột, và nhắc nhở cho
các vị lãnh đạo chính tri biết rằng đa số dân của họ ước mong hòa bình, cả khi họ
không còn sức và tiếng để nói lên diếu đó. Ngài đánh giá cao các tổ chức bắc ái nhân
đạo, trong đó có các tổ chức công giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ, và chính quyền Thổ đã quảng
đại tiếp đón và trợ giúp người ty nạn Siri và Irak. Giáo Hội công giáo, qua các tu
sĩ Salesien, cũng tìm cách trơ giúp và lo lắng cho việc giáu dục đào tạo người tỵ
nạn khắp nơi trên thế giới.
Lúc 16 giờ 15 giờ Đức Thánh Cha đã rời trụ sở
đại diên Tòa Thánh để ra phi trường lấy máy bay về Roma. Tiễn chân Đức Thánh Cha có
các giới chức chinh quyền đia phương, Đức Thượng Phụ Bartolomaios và các Giám Mục
thuộc Hội Đồng Giám Mục thổ Nhĩ Kỳ. Máy bay đã cát cánh lúc 17 giờ và Đức Thánh Cha
đã về tới phi trường Caimpino sau 2 giờ 40 phút bay, kết thúc ba ngày viếng thăm Thổ
Nhĩ Kỳ.