Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvano Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa
Thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp Quốc ở Genève
Trong các ngày trung tuần
tháng 9 năm 2014 Đức Tổng Giám Mục Silvano Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa
Thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp quốc ở Genève Thụy Sĩ, đã phát biểu trong hội nghị
lần thứ 27 của Ủy ban các quyền con người, và cầu mong các sáng kiến bảo vệ các dân
tộc bản địa luôn luôn được gợi hứng và hướng dẫn bởi nguyên tắc tôn trọng căn tính
và các nền văn hóa của họ, đặc biệt là đối với các truyền thống chuyên biệt và tôn
giáo cũng như đối với khả thể quyết định về sự phát triển riêng trong sự cộng tác
với các chính quyền quốc gia.
Đức Tổng Giám Mục Tomasi than phiền rằng các
quyền con người và các quyền tự do nền tảng của các dân tộc bản địa vẫn tiếp tục bị
vi phạm nặng nề. Đức Cha Tomasi cho biết hiện nay có 370 triệu dân bản địa sống trong
90 quốc gia trên thế giới. Dựa trên các thống kê của Liên Hiệp Quốc Đức Cha Tomasi
tố cáo sự ”kỳ thị có hệ thống” và việc ”loại trừ các dân tộc bản địa khỏi quyền bính
chính trị và kinh tế”, cũng như được hưởng công lý như mọi người. Ngoài ra, các nhóm
dân bản địa này phải thường xuyên sống trong cảnh nghèo túng, mù chữ và bần cùng.
Vị Đại diện Tòa Thánh cũng tố cáo cảnh di cư vì chiến tranh và các tai ương thiên
nhiên, các sách nhiễu, bách hại, trả thù mà họ phải chịu, cũng như việc sát hại những
người bênh vực quyền của các nhóm dân bản địa. Hậu qủa là sự phát triển toàn vẹn của
các nhóm dân này bị trì trệ, hay hoàn toàn bị khước từ.
Một thí dụ điển hình
là tương quan của các nhóm dân bản địa và các tổ chức kỹ nghệ liên quốc gia. Các tổ
chức Liên Hiệp Quốc minh nhiên các hậu qủa tiêu cực và tàn hại đo các công ty siêu
quốc này gây ra cho các nhóm dân bản địa, qua các hoạt động khai thác quặng mỏ, phá
hủy rừng già, xây cất cầu đường, và dùng các chất hóa học để tẩy lọc các quặng mỏ
như dùng thủy ngân để lọc vàng, khiến cho các sông ngòi lạch nguồn bị ô nhiễm nặng
nề, gây bệnh tật và tử vong cho các người dân bản địa, như xảy ra cho bộ lac Yanomani
trong vùng Amazzonia. Các làm ăn khai thác này đã không đem lại lợi nhuận kinh tế
nào cho các người dân bản địa. Cần phải theo các mô thức phát triển đích thật, không
vi phạm quyền của các nhóm dân bản địa và khuyến khích việc sử dụng môi sinh có trách
nhiệm.
Để đạt các mục tiêu này cần phải xác định và bảo vệ cả các sản phẩm
của các nhóm dân bản địa, để chúng không bị bất cứ sử dụng nào mà không chú ý tới
các lợi nhuận và quyền lợi của các cộng đoàn của dân bản địa. Rất tiếc là các luật
lệ liên quan tới tài sản trí thức và công ăn việc làm đã không cung cấp các bảo đảm
đủ để bảo vệ các sản phẩm ấy của họ.
Những gì Đức Tổng Giám Mục Tomasi trình
bầy cũng nhằm chuẩn bị cho hội nghị quốc tế về các nhóm dân bản địa diễn ra tại New
York trong hai ngày 22-23 tháng 9. Tòa Thánh đã luôn luôn chú ý tới các vấn đề này
nên khích lệ và cầu mong các vấn đề của các nhóm dân bản địa được đưa vào trong các
tiến trình quyết định liên quan tới việc quản trị các tài nguyên thiên nhiên trong
các vùng đất của họ. Tòa Thánh khích lệ loại trừ mọi mưu toan gạt bỏ các nhóm dân
bản địa ra ngoài. Điều này có nghĩa là phải tôn trọng các tài sản của họ và các thỏa
hiệp liên hệ để đáp ứng các đòi hỏi xã hội, y tế và văn hóa, lo lắng cho sự hòa giải
giữa các dân tộc bản địa và các xã hội trong đó họ sống.
Các dân tộc bản địa
được biết đến nhiều nhất là các thổ dân da đỏ của Mỹ châu, là các dân tộc đã sống
tại đây từ bao đời trước khi có các làn sóng di cư của các người Âu châu. Tên gọi
”Indios” bắt nguồn từ nhà thám hiểm Cristoforo Colombo tìm đường sang Á châu qua ngã
Đại Tây Dương. Khi đến châu Mỹ, ông tưởng mình đã tới miền đông Ấn độ, nên gọi các
thổ dân ở đây là ”Indios”, mà không biết là đã khám phá ra một đại lục mới. Thế là
người Tây Ban Nha gọi vùng đất mới này là ”Tây Ấn Độ”, và chỉ sau đó mới gọi là America,
để vinh danh ông Amerigo Vespucci. Các khám phá thêm sau đó mới cho biết đây là môt
đại lục mới. Nhưng thói quen gọi các thổ dân Mỹ châu là Indios vẫn tiếp tục và không
được sửa sai. Trong khi tên gọi ”thổ dân da đỏ” thường ám chỉ các bộ lạc sống tại
Bắc Mỹ. Lý do có lẽ vì các chiến binh của vài bộ lạc thường có thói quen bôi mầu đỏ
trên mình trước khi ra trận. Ngày nay nhiều học giả thích gọi họ là các dân bản địa
Mỹ châu. Có hàng trăm bộ tộc khác nhau sống rải rác từ Alaska cho tới Nam Mỹ Latinh.
Theo giả thuyết khoa học đáng tin cậy nhất thì cách đây 13.000 năm có các nhóm người
Eurasia di cư sang đây qua ngã eo Bering, là vùng đất nối liền châu Mỹ với châu Âu.
Rồi họ di chuyển xuống miền nam và sống trong toàn Mỹ châu, chia thành nhiều chúng
tộc và bộ lạc khác nhau.
Kể từ khi người da trắng khám phá ra châu Mỹ hồi thế
kỷ XV cho tới thế kỷ XIX đã có khoảng 90 tới 100 triệu dân bản địa Mỹ châu bị chết
vì các người da trắng thuộc địa: vì chiến tranh chinh phục đất đai và các tài nguyên,
vì mất môi trường sinh sống, vì các thay đổi lối sống và bệnh tật, và các cuộc tàn
sát có tính toán. Người da trắng coi các dân tộc bản địa là những kẻ mọi rợ và khinh
rẻ coi họ là những người không đáng sống, trong khi các dân tộc bản địa này sống trong
hòa bình. Tuy các dân tộc Aztec và Inca có thói tục sát tế người cũng theo Kitô giáo
và bỏ thòi quen này, nhưng họ vẫn bị coi như là giống người thấp kém, và thường bị
biến thành nô lệ.
Ngoài các cuộc tàn sát tập thể, các dân tộc bản địa còn
lây các thứ bệnh của người âu châu, chưa từng biết cho tới lúc đó như bệnh đậu mùa,
cúm, thủy đậy, bệnh sởi. Hệ thống miễn nhiễm của họ không có các kháng tố chống lại
các bệnh này. Người ta ước tính có tới 80%-95% dân bản địa châu Mỹ chết vì các thứ
bệnh kể trên giữa các năm 1491-1550, nghĩa là khoảng một phần mười tổng số dân toàn
thế giới thời đó.
Các phương pháp tàn sát và loại trừ các dân bản địa Mỹ châu
sau này sẽ được áp dung cho các cuộc diệt chủng người Armeni và các cuộc diệt chủng
vì lý do kỳ thị chủng tộc khác, như cuộc diệt chủng Do thái do nhà độc tài Hitler
phát dộng.
Số phận của các dân tộc bản địa tại Úc châu, Á châu và Phi châu
cũng không kém thê thảm, và các tình trạng đàn áp, tiêu diệt, loại trừ gạt bỏ ngoài
lề xã hội vẫn tiếp diễn ngày nay, tuy dưới nhiều hình thức tinh vi hơn.
Sau
đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một vài nhận định của Đức Tổng Giám Mục
Silvno Tomasi về vấn đề này.
Hỏi: Thưa Đức Tổng Giám Mục Tomasi, hiện nay
trên thế giới có bao nhiêu triệu nhóm dân bản địa tất cả?
Đáp:
Người ta nói tới 370 triệu người sống trong 90 quốc gia trên thế giới được coi như
hay được xếp loại trong danh sách là các dân tộc bản địa. Từ viễn tượng của giáo huấn
xã hội của Hội Thánh, cần phải thừa nhận căn cước của họ như là cộng đoàn nhân loại,
tôn trọng các truyền thống và các lựa chọn của họ, và như thế cũng thừa nhận rằng
họ có quyền sống trong vùng đất, trong đó họ đã luôn luôn hiện diện. Có ý chí từ cộng
đoàn quốc tế trong việc đương đầu với tình trạng này một cách hiệu qủa hơn, nhưng
đôi khi cũng có sự kỳ thị các cộng đoàn dân bản địa. Chẳng hạn, trong các ngày 22-23
tháng 9 có hội nghị quốc tế các dân tộc nhằm mục đích hợp thức hóa các thực hành hữu
hiệu hơn và tôn trọng hơn đối với căn tính của các dân tộc này, hầu có thể cải tiến
hạnh phúc, sự lớn mạnh nhân bản và tinh thần của các anh chị em này.
Hỏi:
Theo Liên Hiệp Quốc, như Đức Cha đã nói, các quyền con người và các
quyền tự do căn bản của các dân tộc bản địa tiếp tục bị vi phạm, có đúng thế không,
thưa Đức Cha?
Đáp: Trong các vùng đất nơi các dân tộc bản địa này
sinh sống, thí dụ có các tổ chức đa quốc tới khai thác các quặng mỏ hay nhiên liệu
ích lợi và qúy giá, cũng như để khai thác vài đặc thù địa phương, các thào mộc hay
tài nguyện, rồi sau đó bán trên thị trường, mà không tôn trọng các đòi buộc môi sinh
của các vùng đất đó, hay không tôn trọng các quyền của các cộng đoàn này, từ bao lâu
nay vẫn có vài truyền thống bình dân nào đó hay và kiểu sử dụng các tài nguyên thiên
nhiên nào đó. Giờ đây phải thừa nhận cả các lợi nhuận tiền bạc nữa, bởi vì chúng là
các sản phẫm và các sáng kiến văn hóa kiểu mẫu của các dân tộc này.
Hỏi:
Như vậy, có thể khẳng định rằng sự phát triển toàn vẹn của các dân tộc bản địa này
đã bị chậm trễ, nếu không nói là bị khước từ, có phải vậy không thưa
Đức Cha?
Đáp: Vâng. Các dân tộc bản địa này phải được nâng đỡ trên
lộ trình phát triển nhân bản và kinh tế, bởi vì rất thường khi họ hơi bị gạt bỏ bên
lề xã hội, và bị các quốc gia và các chính quyền lãng quên. Việc khích lệ mà người
ta đang làm qua các sáng kiến như Bản tuyện ngôn nhân quyền của các dân tộc bản địa,
hay Hội nghị quốc tế trong tháng 9 này có mục đích cho thấy các đòi buộc của các dân
tộc này. Đó không chỉ là tạo thuận tiện cho cho sự phát triển của họ, mà cũng còn
là mở đường cho một sự hòa giải giữa đa số dân chúng, các chính quyền của quốc gia
và các nhóm, làm sao để có thể đạt được các mục tiêu chung sống thanh bình và xây
dựng. Tòa Thánh đã lên tiếng trong hướng này để có một lộ trình tiến bộ và phát triển
đồng quy với nhau, chứ không trong thế xung khắc giữa các dân tộc bản địa và phần
đân còn lại của quốc gia.