DÙ CÓ PHẢI LÂM VÀO CHIẾN TRẬN, LÒNG CON VẪN CỨ CẬY TIN!
... Thầy Marcel Chalaye 73 tuổi bị mù là phó tế vĩnh viễn dấn thân hoạt động
mục vụ cạnh các anh chị em bị mờ mắt và bị mù lòa trong giáo phận Grenoble
ở miền Đông Nam nước Pháp.
Thầy Marcel bị mờ mắt vì bị xuất huyết nơi mắt
vào chính ngày đứa con gái thứ hai chào đời hồi năm 1972. 31 năm sau, 2003, thầy Marcel
bị mù hẳn. Mỗi lần có dịp nhắc lại biến cố đau thương đầu đời vào năm 1972 thầy vẫn
không dấu nỗi xúc động, vì cùng với nỗi khổ kinh hoàng lại pha trộn niềm an ủi yêu
thương. Thật thế, vừa khi nghe tin dữ, bà Marie-Renée, sản phụ trẻ vừa sinh con, đã
cầm lấy tay chồng và nói: - Điều chính yếu là chúng mình vẫn ở bên nhau!
Ngày nay thì đôi vợ chồng đã cử hành 45 năm thành hôn với sự hiện diện của gia đình
hai đứa con gái và 5 đứa cháu. Chỉ với chút luyến tiếc thầy Marcel tâm sự: - Cái
buồn là tôi không trông thấy mặt con cháu. Dĩ nhiên là tôi vuốt ve chúng nhưng được
nhìn thấy chúng lại là chuyện khác!
Xin nhường lời cho thầy Marcel Chalaye
nói lên chứng từ sống nỗi bất hạnh cùng với niềm vui được thông truyền Đức Tin và
phục vụ các anh chị em bị mờ mắt và bị mù lòa.
Tôi sống mối bất lợi của mình
vừa như một khuyết tật vừa như một lời kêu gọi dấn thân phục vụ tha nhân. Phải thành
thật thú nhận rằng tôi đau khổ vì có những điều tôi không còn có thể làm được nữa,
nhưng cùng lúc, tôi lại cảm nghiệm niềm vui vì nhờ Đức Tin mà tôi có thể siêu-việt-hóa
chứng khuyết tật của mình. Công việc chính của tôi thường là gọi điện thoại để hỏi
thăm tin tức người này, khích lệ người kia hoặc san sẻ nỗi khổ của người đang gặp
thử thách và luôn luôn tìm cách nâng đỡ mọi người.
Thật ra quyết định giúp
đỡ người khác không đến tức khắc sau khi bị mờ mắt vào năm 1972. Rồi đến khi bị mất
hẳn thị giác vào năm 2003 tôi đã trải qua một thời gian dài sống trong khủng hoảng
và trầm cảm. Nhưng vào lúc ấy, chính những anh chị em mù lòa đã giúp tôi vươn lên
bằng cách mô tả cho tôi biết những gì mà họ có thể làm được. Và Đức Chúa Thánh Thần
đã búng ngón tay cái ra hiệu khởi hành và tôi đã tuân lệnh Ngài ..
Tôi thụ
huấn nơi trường tư thục Công Giáo của các sư huynh Maristes nhưng rồi tôi bỏ rơi Đức
Tin năm lên 16 tuổi trước cái chết của người bạn gái. Tôi chỉ trở lại với Giáo Hội
Công Giáo khi thành hôn với Marie-Renée người bạn đời hiền đức của tôi. Mặc dầu không
sống đạo hẳn hoi tôi vẫn muốn cho hai đứa con gái được rửa tội rồi theo học giáo lý
đàng hoàng. Đến lúc này thì hiền thê tôi vặn lại: - Sao anh muốn cho các con
đi lễ trong khi anh không đi?!
Tôi liền trở lại nhà thờ tham dự Thánh
Lễ. Khi ấy, lúc nghe đọc Kinh Tin Kính, tôi ngỡ ngàng tự nhủ: - Ôi đẹp làm
sao! Kinh thật là hay!
Tôi còn trở lại Chúa Nhật sau đó để tham dự Thánh
Lễ .. Tôi bỏ rơi Giáo Hội Công Giáo vào năm 1957. Ngày tôi trở lại nhà thờ
là năm 1980. Phụng Vụ hoàn toàn canh tân thay đổi. Tất cả đều nghe và đọc bằng
tiếng Pháp. Lúc trước tôi nghĩ Giáo Hội thật giàu sang giờ đây tôi khám phá ra Giáo
Hội thật nghèo. Vì chứng mù lòa, tôi chỉ dám đảm nhận những công tác nhỏ nhặt khiêm
tốn.
Khi chấp nhận đề nghị trở thành phó tế vĩnh viễn tôi thầm nghĩ có lẽ
phó tế vĩnh viễn là người giúp quét dọn nhà thờ! Đến khi tham dự buổi họp đầu tiên
về phó tế vĩnh viễn tôi cảm thấy hoảng sợ vì cho rằng đây không phải chỗ đứng của
tôi. Nhưng tôi trở lại với các phiên họp bởi vì tôi học hỏi nhiều điều hay đẹp. Thêm
vào đó chính những anh chị em mù đã giúp đỡ tôi nên đến phiên mình tôi muốn dâng hiến
cuộc đời để phục vụ người khác. Nhưng liệu tôi có đủ khả năng trở thành phó tế vĩnh
viễn không??? Đó là vấn nạn cam go khiến tôi cảm thấy dày vò ray rứt.
Mãi
cho đến khi có một biến cố xảy ra giải thoát tôi khỏi âu lo này. Đó là chuyến hành
hương Lộ Đức dịp Lễ Mân Côi. Hôm ấy trong Thánh Lễ vị Linh Mục muốn tôi giúp trao
Mình Thánh Chúa. Tôi sợ cứng người. Nhưng vị Linh Mục đưa Bình Thánh cho tôi và đề
nghị tôi đứng tựa sát vai ngài để ngài có thể hướng dẫn tôi. Khi bước xuống các bậc
bàn thờ lòng tôi tràn ngập một niềm vui lạ thường. Trong vòng 3 ngày 3 đêm, niềm vui
này không rời tôi. Tôi gần như không chợp mắt. Tôi quá sung sướng. Kể từ giây phút
ấy tôi không lo lắng phân vân về chức vụ phó tế vĩnh viễn nữa!
Cứ mỗi buổi
sáng thức giấc lòng tôi dâng lên niềm tri ân vì được Hội Thánh tuyển chọn. Lời cầu
nguyện của tôi là lời tôi lẩm nhẩm những câu Kinh Thánh mà tôi thuộc lòng. Và nếu
chẳng may có chuyện gì xảy đến cho Marie-Renée - hiền thê dấu ái của tôi - thì tôi
xin phó thác mọi sự trong vòng tay THIÊN CHÚA. Bởi vì tôi không làm gì mà không có
sự trợ giúp của nàng. Nàng luôn luôn sát cánh bên tôi. Nàng là đôi mắt của tôi.
Tôi cảm nghiệm sâu xa rằng thảm họa bị mất thị giác đã khiến tôi trở nên giàu có hơn.
Chưa bao giờ tôi có thể tưởng tượng là mình được một cuộc sống phong phú tràn đầy
như thế. Tôi cố gắng phết những vệt nhỏ lắng nghe và leo một nấc thang nhỏ trong Đức
Tin. Khóc với người khóc, cười với người cười: đó chính là sự hiện diện và là nhiệm
vụ khiêm tốn mà tôi có thể chu toàn được.
... ”Chúa là nguồn ánh sáng và
ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời
tôi, tôi khiếp gì ai nữa? Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân
tôi, ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy, lại lảo đảo té nhào. Dù cả
một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì. Dù có phải lâm vào chiến trận,
lòng tôi vẫn cứ cậy tin. Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền
Chúa tôi mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm
xem thánh điện huy hoàng. Ngày tôi gặp tai ương hoạn nạn, Người che chở tôi trong
lều thánh, đem giấu tôi thật kín trong nhà, đặt an toàn trên tảng đá cao. Nên giờ
đây tôi ngẩng đầu đắc ý, nhìn quân thù vây bủa chung quanh. Tôi sẽ dâng lễ
tế trong thánh điện, lễ tạơn, nhã nhạc vang lừng, tôi sẽ đàn
ca mừng kính Chúa. Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình
đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy
Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng
giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi,
lạy THIÊN CHÚA, Đấng Cứu Độ con. Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy
còn có Chúa đón nhận con”(Thánh Vịnh 27(26),1-10).
(”OMBRES
& lumière”, Revue Chrétienne Des Personnes Malades Et Handicapées, De Leurs Familles
Et Amis, No 196, Novembre-Décembre 2013, trang 26-27)