LỜI CHÚA LÀ NGỌN ĐÈN SOI CHO CON BƯỚC LÀ ÁNH SÁNG CHỈ ĐƯỜNG CON ĐI!
... Đức Cha Luigi Martella 64 tuổi hiện là Giám Mục giáo phận Molfetta ở miền Nam
nước Ý. Trên một chuyến xe lửa đêm, từ giáo phận lên thủ đô Roma, để tham dự một Hội
Nghị quan trọng, Đức Cha đã gặp một chàng thủy thủ có vợ và 3 đứa con gái. Xin nhường
lời cho Đức Cha kể lại buổi gặp gỡ và nói về tình yêu chàng thủy thủ dành cho vợ con
cùng Cuốn Phúc Âm.
Tối hôm ấy, tôi bước lên xe lửa về Roma ở toa hạng nhì.
Các toa xe lửa trống trơn. Tôi vui mừng cảm thấy thật thoải mái và tự nhủ: ”Như vậy
mình có thể lợi dụng thời gian 8 tiếng đồng hồ trên chuyến xe lửa để dọn cho xong
bài thuyết trình sẽ nói vào ngày hôm sau!” Tôi bắt đầu bày ra trên các ghế trống chung
quanh các tài liệu cần thiết cho bài viết. Vừa chuẩn bị xong, tôi bỗng thấy cánh cửa
hé mở và một khuôn mặt tươi trẻ của một người trạc tuổi 30, xuất hiện. Chàng vui vẻ
hỏi ngay: - Con xin lỗi, ngài có phải là Đức Giám Mục giáo phận Molfetta không?
Tôi chưa kịp gật đầu trả lời thì chàng trai hoan hỉ nói thêm: - Thật may mắn!
Con vào ngồi cùng toa với Đức Cha. Chúng ta trò chuyện và như thế, thời gian sẽ qua
nhanh một cái vèo!
Tôi tỏ dấu nghiêm-nghị lạnh-lùng để ít ra chàng trai hiểu
ý và không vào ngồi chung toa với tôi! Nhưng thật vô ích! Chàng đâu có thèm để ý đến
cái ”bản-mặt” bất-bình của tôi. Chàng nhanh nhẹn mở toang cánh cửa và đẩy vào trong
hai cái va-li kềnh càng, nặng thật nặng! Tôi đành thu dọn các sách báo rải rác trên
ghế ngồi và chỉ còn hy vọng duy nhất là chàng sẽ mệt rồi ngủ thiếp đi. Có thế, tôi
mới có đủ giờ dọn xong bài thuyết trình.
Thế nhưng, hỡi ôi, hy vọng của tôi
thật hão huyền!!! Vừa ngồi yên-ắn trên chiếc ghế đối diện với tôi, chàng trai nhanh-nhảu
vào ngay câu chuyện. Chàng cho tôi biết chàng là một thủy thủ và chàng đi Livorno
để lên tàu vì tàu của chàng đang đậu tại đó. Chàng vừa được 2 ngày phép đặc biệt để
bay về nhà tham dự cuộc Rước Lễ Lần Đầu của đứa con gái đầu lòng. Vừa nói chàng vừa
lấy cuốn Album hình kỷ niệm gia đình ra và khoe với tôi. Vừa khoe chàng vừa dò xét
nét mặt tôi để xem phản ứng của tôi như thế nào. Cả đến chuyện chàng không quên hỏi
nhận xét của tôi về sắc đẹp của vợ chàng nữa kìa!!! Rồi chàng thú nhận với tôi: chàng
yêu vợ nồng-nàn thắm-thiết. Yêu đến độ, nếu có thể được, chàng gọi cho nàng mỗi ngày
một lần, ngay cả khi ở xa-lắc xa-lơ bên kia bờ Đại-dương-châu, tận bên Australia!
Cuối cùng chàng quả quyết với tôi: - Nhờ con đắm đuối yêu vợ như thế, nên trong
những tháng ngày xa cách, mặc cho bao cám dỗ rình chờ và biết bao mời mọc, con vẫn
một lòng trung tín với vợ con. Con chưa bao giờ phản bội nàng!
Đến đây thì
tôi đành thu xếp mọi sách báo, giấy tờ và dành thời giờ nghe chàng thủy thủ. Chàng
nói với tôi về đủ mọi đề tài từ chính trị đến thời trang, từ thể thao đến nhạc rock.
Chàng nói thông-suốt say-sưa với dáng điệu thật đơn sơ tự nhiên và trên khuôn mặt
biểu lộ một niềm vui trong sáng. Tôi như bị chàng cuốn hút vào các đề tài. Tôi hình
dung chàng sinh ra và lớn lên trong khung cảnh của một gia đình Công Giáo đạo đức
nề nếp sống theo truyền thống và thật hạnh phúc. Vợ Chồng yêu thương nhau. Con Cái
thảo kính Mẹ Cha. Anh Chị Em đùm bọc che chở cho nhau.
Chàng thủy thủ nói
với tôi là chàng yêu đời và yêu sống. Chàng chỉ hối tiếc một điều là đã lỡ chọn ngành
hàng hải. Thành ra một năm 12 tháng chàng phải xa gia đình đến 8 tháng! Hiện tại chàng
phải tiếp tục nghề này một thời gian để có đủ tiền, trả cái nhà mua trả góp. Sau đó,
nếu Chúa muốn và ban cho chàng sức khoẻ, thì chàng sẽ đổi nghề để có thể sống yên
vui nơi gia đình bên cạnh vợ con.
Chàng thủy thủ long lanh đôi mắt ngời sáng
và nói với tôi: - Thưa Đức Cha, con không tham lam muốn vơ vét thật nhiều tiền
của để làm giàu. Không! Cuộc sống nay-đây mai-đó đã tạo cho con nhiều dịp trông thấy
tận mắt những hoàn cảnh sống nghèo đói cùng cực của người dân Phi Châu. Vì thế đối
với con, sức khoẻ lớn lao và đáng giá hơn tiền của. Con không bao giờ phung phí tiền
bạc. Nhưng nhất là, tình yêu vợ con mới trao cho con niềm hạnh phúc đích thật.
Đang lắng nghe chàng thủy thủ tâm sự, tôi tự hỏi bí quyết nào đã giúp một người chồng,
người cha trẻ tuổi như thế, có thể sống thật hòa điệu? thì chính chàng tỏ lộ cho tôi
chìa khóa hạnh phúc. Chàng nghiêm trang nói: - Con đọc Phúc Âm mỗi ngày. Trên
các chuyến hàng hải, mỗi khi có giờ rãnh, con mở Phúc Âm và đọc Lời Chúa. Thấy
tôi tỏ dấu không mấy tin, chàng nói thêm: - Con biết Đức Cha chưa tin lời con!
Nói xong, chàng đứng lên mở va-li và rút ra cuốn sách có hàng chữ ”Phúc Âm Đức GIÊSU
KITÔ Chúa chúng ta”. Chàng trang trọng đưa tôi xem tờ giấy ghi các lần đọc trọn Cuốn
Phúc Âm. Chẳng hạn: đọc xong lần thứ nhất ngày 3-10-1980 ở eo-biển Gibilterra, nối
liền địa-trung-hải và đại-dương-châu; đọc xong lần thứ hai tại vịnh Sydney bên Úc
.. và đọc xong lần thứ ba, thứ tư, thứ năm tại .. v.v.
Nhìn tận mắt Cuốn ”Phúc
Âm Đức GIÊSU KITÔ Chúa chúng ta” trên tay chàng thủy thủ trẻ tuổi, tôi hiểu và tin
nơi cuộc sống tràn đầy tình yêu của chàng. Chính Lời Chúa đã giúp chàng yêu mến THIÊN
CHÚA hết lòng, yêu vợ con nồng nàn và yêu cuộc đời thắm thiết.
... ”Lời
Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. Con đã thề
và con xin cam kết giữ quyết định công minh của Ngài. Lạy Chúa, thân con bị
muôn phần khổ nhục, theo Lời Ngài, xin cho con được sống. Lạy Chúa, xin khứng nhận
lời tán tạ con dâng và dạy con biết những quyết định của Ngài. Mạng sống này luôn
lâm vòng nguy hiểm, song Luật Ngài con vẫn không quên. Nhằm hại con, bọn ác
nhân gài bẫy, nhưng con chẳng lạc xa huấn lệnh Ngài. Thánh ý Ngài là
gia nghiệp con mãi mãi, vì đó là hoan lạc của lòng con. Con hướng
lòng quyết thực thi thánh chỉ, mãi mãi cho đến cùng. Kẻ hai lòng,
con chê con ghét, nhưng Luật Ngài, con chuộng con yêu. Chúa là nơi con ẩn náu,
là thuẫn đỡ, con vẫn trông cậy ở Lời Ngài. Đi cho rảnh mắt ta, hỡi phường tác hại,
để ta còn tuân giữ mệnh lệnh Chúa ta. Theo Lời Chúa hứa, xin cho con được
sống, đừng để con thất vọng ê chề. Xin phù trợ để con được cứu, và con sẽ luôn luôn
nhìn ngắm thánh chỉ Ngài. Những ai xa lìa thánh chỉ, Chúa đều khinh,
vì mánh lới họ là trò gạt gẫm. Mọi ác nhân trên đời, Chúa coi như rỉ
sắt, nên con đã mến yêu thánh chỉ Ngài” (Thánh Vịnh 119(118),105-120).
(”La Voce di San Giuseppe”, Novembre 2005, trang 18-19)