2014-05-19 13:06:16

LỜI CHÚA LÀ NGỌN ĐÈN SOI CHO CON BƯỚC LÀ ÁNH SÁNG CHỈ ĐƯỜNG CON ĐI!


... Đức Cha Luigi Martella 64 tuổi hiện là Giám Mục giáo phận Molfetta ở miền Nam nước Ý. Trên một chuyến xe lửa đêm, từ giáo phận lên thủ đô Roma, để tham dự một Hội Nghị quan trọng, Đức Cha đã gặp một chàng thủy thủ có vợ và 3 đứa con gái. Xin nhường lời cho Đức Cha kể lại buổi gặp gỡ và nói về tình yêu chàng thủy thủ dành cho vợ con cùng Cuốn Phúc Âm.

Tối hôm ấy, tôi bước lên xe lửa về Roma ở toa hạng nhì. Các toa xe lửa trống trơn. Tôi vui mừng cảm thấy thật thoải mái và tự nhủ: ”Như vậy mình có thể lợi dụng thời gian 8 tiếng đồng hồ trên chuyến xe lửa để dọn cho xong bài thuyết trình sẽ nói vào ngày hôm sau!” Tôi bắt đầu bày ra trên các ghế trống chung quanh các tài liệu cần thiết cho bài viết. Vừa chuẩn bị xong, tôi bỗng thấy cánh cửa hé mở và một khuôn mặt tươi trẻ của một người trạc tuổi 30, xuất hiện. Chàng vui vẻ hỏi ngay:
- Con xin lỗi, ngài có phải là Đức Giám Mục giáo phận Molfetta không?
Tôi chưa kịp gật đầu trả lời thì chàng trai hoan hỉ nói thêm:
- Thật may mắn! Con vào ngồi cùng toa với Đức Cha. Chúng ta trò chuyện và như thế, thời gian sẽ qua nhanh một cái vèo!

Tôi tỏ dấu nghiêm-nghị lạnh-lùng để ít ra chàng trai hiểu ý và không vào ngồi chung toa với tôi! Nhưng thật vô ích! Chàng đâu có thèm để ý đến cái ”bản-mặt” bất-bình của tôi. Chàng nhanh nhẹn mở toang cánh cửa và đẩy vào trong hai cái va-li kềnh càng, nặng thật nặng! Tôi đành thu dọn các sách báo rải rác trên ghế ngồi và chỉ còn hy vọng duy nhất là chàng sẽ mệt rồi ngủ thiếp đi. Có thế, tôi mới có đủ giờ dọn xong bài thuyết trình.

Thế nhưng, hỡi ôi, hy vọng của tôi thật hão huyền!!! Vừa ngồi yên-ắn trên chiếc ghế đối diện với tôi, chàng trai nhanh-nhảu vào ngay câu chuyện. Chàng cho tôi biết chàng là một thủy thủ và chàng đi Livorno để lên tàu vì tàu của chàng đang đậu tại đó. Chàng vừa được 2 ngày phép đặc biệt để bay về nhà tham dự cuộc Rước Lễ Lần Đầu của đứa con gái đầu lòng. Vừa nói chàng vừa lấy cuốn Album hình kỷ niệm gia đình ra và khoe với tôi. Vừa khoe chàng vừa dò xét nét mặt tôi để xem phản ứng của tôi như thế nào. Cả đến chuyện chàng không quên hỏi nhận xét của tôi về sắc đẹp của vợ chàng nữa kìa!!! Rồi chàng thú nhận với tôi: chàng yêu vợ nồng-nàn thắm-thiết. Yêu đến độ, nếu có thể được, chàng gọi cho nàng mỗi ngày một lần, ngay cả khi ở xa-lắc xa-lơ bên kia bờ Đại-dương-châu, tận bên Australia! Cuối cùng chàng quả quyết với tôi:
- Nhờ con đắm đuối yêu vợ như thế, nên trong những tháng ngày xa cách, mặc cho bao cám dỗ rình chờ và biết bao mời mọc, con vẫn một lòng trung tín với vợ con. Con chưa bao giờ phản bội nàng!

Đến đây thì tôi đành thu xếp mọi sách báo, giấy tờ và dành thời giờ nghe chàng thủy thủ. Chàng nói với tôi về đủ mọi đề tài từ chính trị đến thời trang, từ thể thao đến nhạc rock. Chàng nói thông-suốt say-sưa với dáng điệu thật đơn sơ tự nhiên và trên khuôn mặt biểu lộ một niềm vui trong sáng. Tôi như bị chàng cuốn hút vào các đề tài. Tôi hình dung chàng sinh ra và lớn lên trong khung cảnh của một gia đình Công Giáo đạo đức nề nếp sống theo truyền thống và thật hạnh phúc. Vợ Chồng yêu thương nhau. Con Cái thảo kính Mẹ Cha. Anh Chị Em đùm bọc che chở cho nhau.

Chàng thủy thủ nói với tôi là chàng yêu đời và yêu sống. Chàng chỉ hối tiếc một điều là đã lỡ chọn ngành hàng hải. Thành ra một năm 12 tháng chàng phải xa gia đình đến 8 tháng! Hiện tại chàng phải tiếp tục nghề này một thời gian để có đủ tiền, trả cái nhà mua trả góp. Sau đó, nếu Chúa muốn và ban cho chàng sức khoẻ, thì chàng sẽ đổi nghề để có thể sống yên vui nơi gia đình bên cạnh vợ con.

Chàng thủy thủ long lanh đôi mắt ngời sáng và nói với tôi:
- Thưa Đức Cha, con không tham lam muốn vơ vét thật nhiều tiền của để làm giàu. Không! Cuộc sống nay-đây mai-đó đã tạo cho con nhiều dịp trông thấy tận mắt những hoàn cảnh sống nghèo đói cùng cực của người dân Phi Châu. Vì thế đối với con, sức khoẻ lớn lao và đáng giá hơn tiền của. Con không bao giờ phung phí tiền bạc. Nhưng nhất là, tình yêu vợ con mới trao cho con niềm hạnh phúc đích thật.

Đang lắng nghe chàng thủy thủ tâm sự, tôi tự hỏi bí quyết nào đã giúp một người chồng, người cha trẻ tuổi như thế, có thể sống thật hòa điệu? thì chính chàng tỏ lộ cho tôi chìa khóa hạnh phúc. Chàng nghiêm trang nói:
- Con đọc Phúc Âm mỗi ngày. Trên các chuyến hàng hải, mỗi khi có giờ rãnh, con mở Phúc Âm và đọc Lời Chúa.
Thấy tôi tỏ dấu không mấy tin, chàng nói thêm:
- Con biết Đức Cha chưa tin lời con!

Nói xong, chàng đứng lên mở va-li và rút ra cuốn sách có hàng chữ ”Phúc Âm Đức GIÊSU KITÔ Chúa chúng ta”. Chàng trang trọng đưa tôi xem tờ giấy ghi các lần đọc trọn Cuốn Phúc Âm. Chẳng hạn: đọc xong lần thứ nhất ngày 3-10-1980 ở eo-biển Gibilterra, nối liền địa-trung-hải và đại-dương-châu; đọc xong lần thứ hai tại vịnh Sydney bên Úc .. và đọc xong lần thứ ba, thứ tư, thứ năm tại .. v.v.

Nhìn tận mắt Cuốn ”Phúc Âm Đức GIÊSU KITÔ Chúa chúng ta” trên tay chàng thủy thủ trẻ tuổi, tôi hiểu và tin nơi cuộc sống tràn đầy tình yêu của chàng. Chính Lời Chúa đã giúp chàng yêu mến THIÊN CHÚA hết lòng, yêu vợ con nồng nàn và yêu cuộc đời thắm thiết.

... ”Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. Con đã thề và con xin cam kết giữ quyết định công minh của Ngài. Lạy Chúa, thân con bị muôn phần khổ nhục, theo Lời Ngài, xin cho con được sống. Lạy Chúa, xin khứng nhận lời tán tạ con dâng và dạy con biết những quyết định của Ngài. Mạng sống này luôn lâm vòng nguy hiểm, song Luật Ngài con vẫn không quên. Nhằm hại con, bọn ác nhân gài bẫy, nhưng con chẳng lạc xa huấn lệnh Ngài. Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi, vì đó là hoan lạc của lòng con. Con hướng lòng quyết thực thi thánh chỉ, mãi mãi cho đến cùng. Kẻ hai lòng, con chê con ghét, nhưng Luật Ngài, con chuộng con yêu. Chúa là nơi con ẩn náu, là thuẫn đỡ, con vẫn trông cậy ở Lời Ngài. Đi cho rảnh mắt ta, hỡi phường tác hại, để ta còn tuân giữ mệnh lệnh Chúa ta. Theo Lời Chúa hứa, xin cho con được sống, đừng để con thất vọng ê chề. Xin phù trợ để con được cứu, và con sẽ luôn luôn nhìn ngắm thánh chỉ Ngài. Những ai xa lìa thánh chỉ, Chúa đều khinh, vì mánh lới họ là trò gạt gẫm. Mọi ác nhân trên đời, Chúa coi như rỉ sắt, nên con đã mến yêu thánh chỉ Ngài” (Thánh Vịnh 119(118),105-120).

(”La Voce di San Giuseppe”, Novembre 2005, trang 18-19)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt








All the contents on this site are copyrighted ©.