Vài nét lịch sử liên quan tới đề tài sám hối và hối nhân
Trong thói quen của Giáo hội thời khai sinh bí tích Rửa Tội không chỉ tha mọi tội
cho tín hữu, mà cũng dẫn đưa họ vào việc tham dự vào mầu nhiệm sám hối sự vượt qua
của Chúa Kitô nữa. Mỗi một kitô hữu, trong một cách thức nào đó, là một hối nhân trong
nghĩa thiêng liêng. Nếu sau khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội tín hữu phạm các tội nặng
hay tội trọng, thì bị ra ngoài sự hiệp thông bình thường của Giáo Hội trên bình diện
sám hối cũng như trong bí tích Thánh Thể. Tín hữu đó trở thành người sám hối không
chỉ trước mặt Thiên Chúa, mà trước mặt cả Giáo Hội nữa. Họ cần được hòa giải một cách
chính thức.
Đối với tội nhân công khai Giáo Hội cống hiến cho họ khả thể tham
dự vào một việc sám hối đặc biệt. Tín hữu ấy được coi như hối nhân đền tội nột cách
công khai bởi loại áo mặc, bởi chỗ ngồi riêng trong các cuộc hội họp và cử hành của
Giáo Hội, và bởi việc ăn chay đền tội theo một thói quen xác định. Nhưng nhất là hối
nhân cảm thấy mình nhận được ơn nghĩa, mà cộng đoàn giáo hội dành cho họ, vì khi được
ghi danh vào việc sám hội công khai, họ được phó thác cho lời cầu nguyện hữu hiệu
của toàn thể Giáo Hội, với sự chắc chắn sẽ được Đức Giám Mục hay hàng giáo sĩ cho
được hòa giải với Thiên Chúa và với Giáo Hội nhân danh toàn cộng đoàn.
Giáo
Hội xây dựng quyền hòa giải trên xác tín Thiên Chúa nhân từ thương xót mọi kẻ có tội
thành tâm thống hối. Tuy nhiên, các Giáo Hội khác nhau không luôn luôn thực thi khả
năng tha tội, vì nhiều lý do khác nhau. Với tác giả Erma (Mand. IX,1.8: 5,6) Giáo
Hội có thói quen chấp nhận vào danh sách các hối nhân lần đầu tiên sau bí tích Rửa
Tội, vì cho rằng ngày tận thế gần kề. Trong Giáo Hội thời các giáo phụ bên Tây Phương,
từ Tertulliano cho tới công nghị lần thứ 3 tại Toledo năm 589, và bên Đông Phương
tại Alessandria với Clemente và Origene, việc hạn chế chấp nhận các hối nhân vào danh
sách các kẻ thống hối có một lý do mới khác: đó là loại trừ khuynh hướng dễ dãi buông
thả trong thói tục của người Ai Cập. Trái lại, để ngăn cản sự buông thả có thể xảy
ra, một vài Giáo Hội bên Phi châu với thánh Cipriano, bên Tây Ban Nha với các công
nghị Elvira và Saragozza, không xá giải cho một số tội nặng. Và ngay cả khi các tội
đó được đặt dưới kỷ luật của Giáo Hội, người ta tuyên bố rằng chúng không thể được
tha trong Giáo Hội một cách hoàn toàn (Erma, Mand. IV,3,3; Tertulliano, De poenit
7,10; Origene, Hom. in Ex. 6,9; vv... )
Trong thời giáo phụ sau này, các công
nghị và các Giám Mục ra luật sám hối trong tương quan với mức độ loại trừ khỏi cộng
đoàn giáo hội, thời gian kéo dài của nó, và việc tái chấp nhận nhưng chỉ một phần,
bởi vì người ta cấm vĩnh viễn hối nhân không được tiến tới các chức giúp lễ và có
các liên hệ chồng vợ. Nếu trong Giáo Hội thuộc mấy thế kỷ đầu việc sám hối công khai
đã là một lộ trình hoán cải, thì gìơ đây nó trở thành một hình phạt trong nghĩa giáo
hội và phụng tự. Cộng đoàn giáo hội ý thức được sự cần thiết điều hợp cuộc sống kitô
với các luật của Giáo Hội, vạch ra các lằn ranh rõ ràng và chính xác các nơi công
cộng được phép đối với các hối nhân, cũng như thiết lập một điều lệ để dứt phép thông
công.
Sự thật là giáo luật ghi khắc với sự chính xác các hình phạt, nhưng
lại không bảo đảm các phương thế giúp sống các hình phạt đó với tinh thần sám hối.
Các thu hẹp liên quan tới cuộc sống hôn nhân và việc tham dự vào các buổi cử hành
bí tích làm nảy sinh ra nhiều khó chịu tinh thần cho các hối nhân. Giáo luật có các
đòi buộc pháp lý không luôn luôn đồng nhất với các lo lắng mục vụ. Mục vụ giáo hội
đã nghĩ ra các phương thế thích hợp để trốn chạy chừng nào có thể các khó khăn gây
ra bởi giáo luật liên quan tới việc sám hối. Chẳng hạn như dời việc sám hối lại cho
tới khi sắp chết và cho tới tuổi già (Cesario di Arles, Sermo 282,2; Avito di Vienne,
Ep 18; III Concilio di Orleans [538] c. 24). Giáo luật liên quan tới việc sám hối
công khai đã biết ban hành trong cộng đoàn kitô một thói quen đồng nhất phổ quát đưa
ra các hình phạt, nhưng cũng đã cống hiến dịp giúp sống sự sám hối như là việc dứt
phép thông công được cấu trúc trong chiều kích thuần túy hình phạt hợp pháp, hầu như
có thể thực hiện được một cách độc lập với việc thực thi sám hối nội tâm của các chủ
thể liên hệ. Ảnh hưởng này, một cách khác khác nhau, sẽ kéo dài cho tới Công Đồng
Chung Trento. Công Đồng sẽ sử dụng các phạm trù ”tòa án” để phác họa thực tại của
bí tích sám hối.
Tinh thần tu đức sám hối sau đó sẽ có một kiểu diễn tả riêng
bên ngoài khung cảnh pháp lý, trong việc dứt phép thông công của Giáo Hội: nó sẽ tạo
thuận tiện cho việc xưng thú tội riêng tư như là bí tích. Thực hành bí tích này nhấn
mạnh chú ý trên việc thanh tẩy nội tâm của hối nhân riêng rẽ: tương quan giữa hối
nhân và linh mục giải tội biến thành riêng tư, bên ngoài viễn tượng của việc đền tội
công khai. Hối nhân tìm đến với bí tích xưng tội để bảo đảm ơn cứu rỗi tương lai cho
mình, và để có được sự bình an bên trong của lương tâm. Từ thế kỷ XII nền thần học
kinh viện sẽ tìm hòa giải khía cạnh cá nhân của việc sám hối với sự can thiệp bí tích
của Giáo Hội. Nó sẽ xác định khi nào và ra sao việc xá giải bí tích khiến cho sự sám
hồi cá nhân được trọn vẹn. Nếu mỗi tội nặng tách rời tín hữu khỏi Giáo Hội như là
thực tại ơn thánh, chỉ có tình trạng tội công khai mới tuyệt thông kẻ có tội với cộng
đoàn giáo hội hữu hình. Việc tuyệt thông trở thành hình phạt giáo luật, chứ không
phải là cơ cấu sám hối tinh thần nữa.
Chắc chắn là Giáo Hội đã không bao giờ
cố ý định ranh giới cho bí tích sám hối trong vùng riêng tư của các linh hồn. Cả trong
thời sau Công Đồng Chung Trento Giáo Hội đã áp đặt trên các cha giải tội các hạn chế:
các vị không được ban phép tha tội, khi kẻ có tội ở trong tình trạng không chân thành
hối lỗi hữu hiệu. Giáo Hội đã luôn luôn duy trì việc dứt phép thông công như không
được lãnh phép xá giải và không được rước Mình Thánh Chúa. Tuy nhiên kinh nghiệm đức
tin kitô ngày nay đòi buộc một sự sát nhập sâu xa hơn của việc sám hối riêng tư trong
việc sám hối công khai của Giáo Hội. Công Đồng Chung Vaticăng II đã tìm hướng dẫn
việc sám hối làm sao để hòa hợp giữa các khía cạnh cá nhân và các khía cộng đoán một
cách lớn hơn. Sách bí tích giải tội mới trình bầy bí tích sám hối trong kiểu diễn
tả lịch sử ơn cứu rỗi cá nhân, bằng cách tìm đưa nó vào trong một bối cảnh toàn vẹn
cộng đoàn giáo hội. Nó chỉ là một khởi đầu mà thói quen kitô sẽ biết khám phá ra và
sống một cách sâu đậm hơn trong tương lai.
Đoàn ngũ các hối nhân đã luôn luôn
hiện hữu trong cộng đoàn kitô, cả khi trong các mô thức luật lệ và giáo hội khác nhau.
Nó bao gồm các kẻ có tội mà Giáo hội không cho tham dự bí tích Thánh thể, nhất là
rước Mình Thánh Chúa. Họ vẫn là thành phần của Giáo Hội, nhưng không được lãnh các
bí tích.
Như thế vấn đề đặt ra đó là hiệp hội những người có tội phải làm
việc đền tội công khai có phải chỉ là một hệ thống tiêu cực của Giáo Hội không? Có
phải nó không đem lại chứng tá lợi ích nào cho Giáo Hội? Thật ra, nó luôn luôn có
một sứ mệnh kitô. Nó nhắc nhở cho biết sám hối là một tình trạng phải có đối với tất
cả mọi người và trong suốt cuộc đời. Tín hữu được mời gọi chu toàn nhiệm vụ sám hối
của mình trong suốt cuộc đời, trong chính kinh nghiệm thần bí của nó. Là hối nhân
một cách nền tảng không chỉ có nghĩa là thanh tẩy chính mình khỏi các tội lỗi đã phạm,
nhưng cũng là thái độ cá nhân không thể khước từ được, nhưng nhất là sống mầu nhiệm
phục sinh của Chúa Kitô, đến độ từ chỗ sống theo xác thịt bước sang chỗ là thần trí
phục sinh trong Chúa hiển vinh.
Hiệp hội các người sám hối còn có một sứ mệnh
khác nữa. Nó nhắc nhở cho chúng ta biết rằng tuy là kẻ có tội họ vẫn có thể tham dự
vào lòng thương xót của Thiên Chúa, bằng cách hy vọng nơi ơn cứu rỗi do Chúa Kitô
cống hiến. Như là người tội lỗi họ tiếp tục hướng nhìn về Chúa, khẩn nài và tin tưởng
nơi ý muốn cứu độ của Người. Tín hữu tin rằng chỉ có ơn thánh Chúa mới có thể chiến
thắng ý muốn gian ác của chúng ta. Sau cùng, hiệp hội của các người sám hối loan báo
rằng những ai sống trong tình bác ái là những người đã được ân xá. Bác ái không phải
là một việc khiến cho người ta có công nghiệp, nhưng luôn luôn chỉ là một ơn của Thiên
Chúa. Nếu trong hiện tại không phải tất cả mọi người đều nhận ra với kinh nghiệm đớn
đau của mình, rằng họ không có khả năng ở lại trong tình bạn với Chúa Kitô, thì chỉ
duy nhất nhờ lòng thương xót đón trước của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng không thể
thấy trước được trong các chương trình ơn thánh của Người: ”Gió muốn thổi đâu thì
thổi: người ta nghe thấy nó nhưng không nói được nó đến từ đâu và đi đâu. Cùng điều
đó cũng xảy ra cho người sinh ra bởi Thần Khí” (Ga 3,8) Trong Giáo Hội cũng được loan
báo sự nhưng không của bác ái trong Thần Khí của Chúa Kitô qua hiệp hội các người
sám hối.