Bài nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với hàng Giám Mục Mỹ Châu Latinh
Lúc 16 giờ chiều Chúa Nhật 28-7-2013 Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ các Giám Mục,
trong đó có 45 vị thuộc Ủy ban điều hành Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh và
vùng Caraibi.
Bài nói chuyện của Đức Thánh Cha với các Giám Mục đã là diễn
văn dài nhất của ngài kể từ khi lên giữ chức vụ chức Giám Mục Roma kiêm Chủ Chăn Giáo
Hội hoàn vũ.
Trong diễn văn Đức Thánh Cha đã tóm tắt một vài đặc thái của
Hội nghị Aparecida triệu tập năm 2007 về đề tài truyền giáo cho châu Mỹ Latinh với
hai chiều kích chương trình và mô thức thực hiện cụ thể tại các Giáo Hội địa phương.
Ý thức về một Giáo Hội được tổ chức để phục vụ tất cả mọi tín hữu và những người thiện
chí. Trong số các thách đố ơn gọi tông đồ thừa sai có việc canh tân nội bộ Giáo Hội
và đối thoại với thế giới hiện nay.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đề cập tới vài
cám dỗ chống lại ơn gọi tông đồ thừa sai khiến cho Giáo Hội đánh mất đi căn tính đích
thật của mình và trở thành một thực thể khác, nhưng không phải là Giáo Hội của Chúa
Kitô. Tiếp tục diễn văn nói với các hàng Giám Mục Mỹ châu Latinh, Đức Thánh Cha Phanxicô
nhắc lại một vài tiêu chuẩn giáo hội học, giúp hiện thực ơn gọi tông đồ thừa sai trong
bối cảnh của Mỹ châu Latinh hiện nay.
Sau đây là nội dung phần đầu bài diễn
văn quan trọng này.
Mở đầu bài nói chuyện Đức Thánh Cha Phanxicô nói: Tôi
cảm tạ Chúa về cơ may có thể nói chuyện với anh em, chư huynh Giám Mục, đặc trách
Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh CELAM trong nhiệm kỳ 2011-2015. Từ 57 năm qua
tổ chức CELAM phục vụ 22 Hội Đồng Giám Mục của Mỹ châu Latinh và vùng Caraibi bằng
sự cộng tác một cách liên đới và phụ đới để thăng tiến, kích thích và làm năng động
tính cách giám mục đoàn và sự hiệp thông giữa các Giáo Hội của Vùng này với các Chủ
Chăn của nó.
Cũng như anh em, tôi là chứng nhân của sức thúc đẩy mạnh mẽ của
Chúa Thánh Thần trong Hội nghị khoáng đại lần thứ V của Liên Hội Đồng Giám Mục châu
Mỹ Latinh tại Aparecida hồi tháng 5 năm 2007. Hội nghị này tiếp tục linh hoạt các
công việc của tổ chức CELAM đối với sự mong ước canh tân của các Giáo Hội riêng rẽ.
Việc canh tân đó đã được tiến hành trong nhiều Giáo Hội địa phương. Tôi ước mong tập
trung buổi nói chuyện này vào gia tài của cuộc gặp gỡ huynh đệ mà chúng ta tất cả
đã coi như là Sứ mệnh truyền giáo đại lục.
Tiếp tục diễn văn Đức Thánh Cha
đã ghi nhận vài đặc thái của Hội nghị Aparecida và nói: có bốn đặc thái riêng của
Hội nghị lần thứ V này. Chúng như bốn cột trụ của việc phát triển của Hội nghị Aparecida
và chúng trao ban cho nó sự độc đáo.
Đặc thái thứ nhất là Hội nghị bắt đầu
mà không có tài liệu. Tại các Hội nghị Medellin, Puebla và Santo Domingo, các công
việc đã bắt đầu với một lộ trình chuẩn bị đạt tột đỉnh với một loạt tài liệu làm việc
giúp khai triển việc thảo luận, suy tư và chấp thuận tài liệu chung kết. Trái lại
hội nghị Aparecida đã thăng tiến việc tham dự của các Giáo Hội địa phương như lộ trình
chuẩn bị đạt tột đỉnh trong một tài liệu tổng kết. Tài liệu này tuy được dùng như
điểm tham chiếu trong Hội nghị lần thứ V, nhưng đã không được coi như tài liệu khởi
hành. Công việc khởi đầu bao gồm việc góp chung các ưu tư của các Chủ Chăn trước sự
thay đổi của thời đại và việc cần thiết phục hồi cuộc sống tông đồ và truyền giáo
mới là mục đích mà Chúa Kitô đã thành lập Giáo Hội.
Đặc thái thứ hai là môi
trường cầu nguyện với Dân Chúa. Thật quan trọng nhắc tới bầu khí cầu nguyện được tạo
ra bởi việc chia sẻ Thánh Thể hằng ngày và các lúc cử hành phụng vụ khác, trong đó
chúng ta đã luôn luôn được Dân Thiên Chúa đồng hành. Đàng khác, bởi sự kiện các công
việc được tiến hành dưới hầm Đền Thờ, ”nhạc hoạt động” đệm cho các công việc đó là
các thánh ca và lời cầu của tín hữu.
Đặc thái thứ ba là Tài liệu kéo dài trong
sự dấn thân, với Sứ mệnh truyền giáo đại lục. Trong bầu khí cầu nguyện và đời sống
đức tin đó nảy sinh ước muốn của một lễ Hiện Xuống mới cho Giáo Hội và dấn thân Truyền
giáo đại lục. Hội nghị Aparecida không kết thúc với một tài liệu, mà kéo dài trong
việc Truyền giáo đại lục.
Đặc thái thứ bốn là sự hiện diện của Đức Bà Mẹ của
châu Mỹ Latinh. Đây là Hội nghị đầu tiên của Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh
và vùng Caraibi được nhóm tại Đền Thánh Đức Mẹ.
Nói tiếp trong bài huấn dụ
Đức Thánh Cha trình bầy các chiều kích của việc truyền giáo cho lục địa Châu Mỹ Latinh.
Ngài nói: Việc Truyền giáo lục địa được dự phóng trong hai chiều kích: có chương trình
và mô thức thực hành.
Truyền giáo có chương trình, như tên của nó nói lên,
bao gồm việc thực hiện các hành động có ấn tích truyền giáo. Việc truyền giáo mô thức
thực hành trái lại, đòi buộc đặt để các sinh hoạt thông thường của các Giáo Hội địa
phương trong chìa khóa truyền giáo. Một cách hiển nhiên, ở đây như là kết quả người
ta đưa ra tất cả một năng động cải tổ các cơ cấu giáo hội. Việc ”thay đổi các cơ cấu”
(từ tàn lụi sang mới mẻ) không phải là hoa trái của một nghiên cứu về việc tổ chức
sự thiết đặt giáo hội hữu hiệu, từ đó sẽ là một việc tái tổ chức tĩnh, nhưng là kết
qủa của năng động truyền giáo. Điều khiến cho các cấu trúc hư nát gẫy đỗ, điều dẫn
đưa tới chỗ thay đổi con tim của các Kitô hữu, chính là tính cách truyền giáo. Từ
đó nảy ra tầm quan trọng của mô thức truyền giáo.
Truyền giáo đại lục có chương
trình hay như mô thức truyền giáo đòi hỏi việc tạo ra ý thức của một Giáo Hội được
tổ chức để phục vụ tất cả mọi người đã được rửa tội và những người thiện chí. Người
môn đệ Chúa Kitô không phải là một người bị cô lập trong một nền tu đức duy nội tại,
nhưng là một người sống trong cộng đoàn để tự hiến cho tha nhân. Vì thế truyền giáo
đại lục bao hàm việc thuộc về Giáo Hội.
Một định hướng như thế này, bắt đầu
với việc là môn đệ truyền giáo và kéo theo việc hiểu biết căn tính của Kitô hữu như
là thuộc về Giáo Hội, đòi hỏi chúng ta phải nêu rõ đâu là các thách đố hiện nay của
tính cách truyền giáo của việc làm môn đệ. Tôi sẽ chỉ minh nhiên hai thách đố thôi:
việc canh tân nội bộ Giáo Hội và đối thoại với thế giới hiện nay.
Đại hội
Aparecida đã đề nghị Việc hoán cải mục vụ như là điều cần thiết. Sự hoán cải này bao
gồm việc tin vào Tin Mừng, tin nơi Chúa Giêsu Kitô Đấng đem Nước Thiên Chúa đến, tin
nơi sự hòa nhập của Người vào lòng thế giới, tin nơi chiến thắng của Người trên sự
dữ, tin nơi sự trợ giúp và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, tin nơi Giáo hội, Thân Mình
của Chúa Kitô và là tổ chức kéo dài năng động của sự Nhập Thể.
Trong ý nghĩa
đó như là các Chủ Chăn chúng ta cần đặt ra các câu hỏi quy hướng về các Giáo Hội mà
chúng ta chủ trì. Các câu hỏi này dùng như hướng dẫn giúp duyệt xét tình trạng của
các Giáo phận trong việc tiếp nhận tinh thần của hội nghị Aparecida và là các câu
hỏi thich hợp chúng ta phải thường xuyên đặt ra như là việc xét mình.
Thứ
nhất, chúng ta có làm sao để cho công việc của chúng ta và của các Linh Mục của chúng
ta có tính cách mục vụ hơn là quản trị không? Ai là người chính yếu được thừa hưởng
cộng việc của Giáo Hội. Giáo Hội như là tổ chức hay Dân của Thiên Chúa trong tổng
thể của nó?
Thứ hai, chúng ta có vượt thắng được cám dỗ chú ý một cách phản
ứng tới các vấn đề phức tạp nảy sinh ra hay không? Chúng ta có tạo ra một thói quen
phò tích cực hay không? Chúng ta có thăng tiến các không gian và cơ hội giúp biểu
lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không? Chúng ta có ý thức được trách nhiệm phải
duyệt xét lại các sinh hoạt mục vụ và hoạt động của các cơ cấu Giáo Hội, bằng cách
tìm thiện ích của tín hữu và của xã hội không?
Thứ ba, trong thực hành, chúng
ta có làm cho tín hữu giáo dân trở thành những người tham dự vào Sứ Mệnh truyền giáo
không? Chúng ta có cống hiến Lời Chúa và các Bí Tích với lương tâm trong sáng và xác
tín rằng Chúa Thánh Thần biểu lộ trong đó không?
Thứ bốn, việc phân định mục
vụ bằng cách sử dụng các Hội đồng mục vụ giáo phận có là một tiêu chuẩn quen thuộc
hay không? Các Hội đồng ấy, và các Hội đồng mục vụ và hội đồng kinh tế giáo xứ có
là các khoảng không đích thực cho việc tham dự của giáo dân vào việc cố vấn, tổ chức
và lên chương trình mục vụ hay không? Hoạt động tốt của các Hội đồng là điều định
đoạt. Tôi tin rằng chúng ta đang rất chậm trễ trong lãnh vực này.
Thứ năm,
chúng ta là các Chủ Chăn, Giám Mục và Linh Mục, chúng ta có ý thức và xác tín về sứ
mệnh của giáo dân và để cho họ được tự do để họ phân định sứ mệnh mà Chúa trao phó
cho họ, một cách phù hợp với con đường môn đệ của họ hay không? Chúng ta có yểm trợ
họ và đồng hành với họ, bằng cách thắng vượt bất cứ cám dỗ lèo lái họ hay bắt họ tùng
phục trái phép không? Chúng ta có luôn luôn cởi mở để cho mình được mời gọi trong
việc tìm kiếm thiện ích của Giáo Hội và Sứ Mệnh của Giáo Hội trong thế giới không?
Thứ sáu, các nhân viên mục vụ và các tín hữu nói chung có cảm thấy họ là thành phần
của Giáo Hội, có tự đồng hóa với Giáo Hội và đem Giáo Hội tới gần với các người đã
được rửa tội nhưng sống xa Giáo Hội không?
Như chúng ta có thể hiểu ở đây
liên quan tới các thái độ. Việc hoán cải mục vụ một cách chính yếu liên quan tới các
thái độ và việc cải tổ cuộc sống. Một sự thay đổi thái độ là năng động cần thiết:
”nước vào tiền đình” và chỉ có thể khơi rãnh cho nó bằng cách đồng hành với nó và
phân định. Thật là quan trọng phải luôn chú ý rằng để khỏi đi lạc trên con đường này
địa bàn là căn tính công giáo được hiểu như là thuệc về Giáo Hội.
Thách đố
thứ hai là đốl thoại với thế giới hiện nay. Cần phải nhớ các lời của Công Đồng Chung
Vaticăng II: các niềm vui và các hy vọng, các nỗi buồn và các âu lo của con người
thời nay, nhất là của các người nghèo và những ai đau khổ, cũng là các niềm vui và
hy vọng, nỗi buồn và âu lo của các môn đệ Chúa Kitô (GS, 1). Chính đây là nền tảng
cuộc đối thoại với thế giới hiện nay.
Câu trả lời cho các vấn nạn hiện sinh
của con người ngày nay, đặc biệt của các thế hệ mới, bằng cách chú ý tới ngôn ngữ
của họ, bao gồm một sự thay đổi phong phú, cần bước đi với sự trợ giúp của Tin Mừng,
của Huấn Quyền và Giáo Lý Xã Hội của Hội Thánh. Các quang cảnh và các nơi rao giảng
rất khác nhau. Chẳng hạn, trong cùng một thành phố, có các hình dáng tập thể khác
nhau quy định hình dáng ”các thành phố khác nhau”. Nếu chúng ta chỉ ở lại trong các
mẫu mực của ”nền văn hóa xưa kia”, nói cho cùng một nền văn hóa của nền tảng đồng
quê, kết qủa sẽ là việc hủy bỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa ở trong tất
cả mọi phía: cần phải biết khám phá ra Người để có thể loan báo Người trong tiếng
nói của mọi nền văn hóa; và mỗi một thực tại, mỗi một ngôn ngữ đều có tiết nhịp khác
nhau.
Trong phần hai bài nói chuyện với hàng Giám Mục châu Mỹ Latinh Đức Thánh
Cha Phanxicô trình bầy vài cám dỗ chống lại ơn gọi tông đồ thừa sai và đề ra một vài
tiêu chuẩn Giáo Hội học giúp thực thi ơn gọi đó.
Đức Thánh Cha nói: việc chọn
lựa cuộc sống môn đệ thừa sai sẽ bị cám dỗ. Vì thế thật quan trọng phải hiểu biết
chiến thuật tinh thần gian ác để có thể phân định. Đây không phải là việc đi ra để
xua đuổi qủy dữ, nhưng chỉ là sự sáng suốt và khôn lanh theo tinh thần Tin Mừng mà
thôi. Tôi chỉ xin nêu lên một vài thái độ diễn tả gương mặt của một Giáo Hội bị ”cám
dỗ”. Đây là việc hiểu biết vài đề nghị nào đó hiện nay có thể giảm thiểu năng động
của tông đồ thừa sai, khiến cho tiến trình hoán cải mục vụ dừng lại hay thất bại.
Cám dỗ thứ nhất là ý thức hệ hóa sứ điệp tin mừng. Đây là một cám dỗ mà Giáo Hội đã
có ngay từ đầu: tìm một giải thích thực dụng tin mừng vượt ngoài chính sứ điệp của
Tin Mừng và Giáo Hội. Một thí dụ, hội nghị Aparecida trong một lúc nào đó đã đau khổ
vì cám dỗ này dưới hình thức của sự ”khử trùng”. Người ta dùng phương pháp ”nhìn xem,
phán đoán, hành động”. Cám đỗ nằm ở chỗ lựa chọn một “nhìn xem” hoàn toàn lạnh lùng,
một ”nhìn xem” trung lập, là điều không thể nào thực hiện được. Việc nhìn xem luôn
luôn bị ảnh hưởng bởi cái nhìn. Không có việc giải thích thực dụng lạnh lùng. Khi
đó câu hỏi nêu lên là chúng ta đi xem thực tại với cái nhìn nào? Hội nghị Aparecida
trả lời: với cái nhìn của người môn đệ. Các số từ 20 tới 31 của tài liệu được hiểu
theo nghĩa này. Có các cách ý thức hệ hóa sứ điệp khác và hiện nay xuất hiện tại châu
Mỹ Latinh và quần đảo Caraibi các đề nghị thuộc loại này. Sau đây tôi xin nhắc tới
vài đề nghị:
Thứ nhất, chủ thuyết giản lược xã hội hóa. Đây là ý thức hệ hóa
dễ khám phá ra. Trong vài thời điểm nó đã rất mạnh. Nó là một yêu sách giải thích
dựa trên một kiểu giải thích của các khoa học xã hội, và bao gồm các lãnh vực khác
nhau: từ chủ thuyết thị trường tự do cho tới các loại phạm trù hóa mác xít.
Thứ hai, việc ý thức hệ hóa tâm lý. Đây là một giải thích ưu việt, nói cho cùng nó
giản lược việc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, và sự phát triển cuối cùng của nó thành
một năng động của việc tự hiểu biết mình. Người ta thường cống hiến nó trong các khóa
tu đức, các cuộc tĩnh tâm vv... Và kết cục nó trở thành một thái độ tự tại quy chiếu
về mình. Nó không biết gì tới siêu việt, và vì thế không biết gì tới truyền giáo.
Thứ ba là đề nghị ngộ đạo khá gắn bó với cám dỗ kể trên. Nó thường được gặp trong
các nhóm ưu việt với một đề nghị tu đức cao hơn, không nhập thể, và kết thúc bằng
các thái độ mục vụ của loại ”các vấn nạn của việc thảo luận”. Đó đã là sự lệch lạc
đầu tiên của cộng đoàn Kitô tiên khởi, và nó tái xuất hiện trong dòng lịch sử Giáo
Hội, với các ấn bản được duyệt lại và sửa chữa. Một cách tầm thường người ta gọi họ
là ”các tín hữu công giáo được soi sáng” (để hiện nay là những kẻ thừa tự của nền
văn hóa duy quang luận).
Thứ bốn là đề nghị của Pelagio. Nó xuất hiện một
cách nền tảng dưới hình thức tái thiết. Trước các bệnh của Giáo Hội người ta chỉ tìm
một giải pháp kỷ luật, trong việc tái lập các thái độ và hình thức đã lỗi thời và
cũng không có khả năng có ý nghĩa trên bình diện văn hóa. Tại châu Mỹ Latinh nó được
hiệm thực trong các nhóm nhỏ, trong một vài dòng tu, trong các khuynh hướng ”an ninh
giáo thuyết hay kỷ luật”. Một cách nền tảng nó ở trong thế tĩnh, mặc dù có thể tái
hứa hẹn một năng động vào bên trong biến đổi. Nó tìm ”thu hồi” qúa khứ đã mất.
Cám dỗ thứ hai là chủ trương hữu hiệu. Hoạt động của nó trong Giáo Hội gây tê liệt.
Hơn là với thực tại của đường đi, nó hứng khởi với ”bảng chỉ đường”. Quan niệm duy
hữu hiệu không nhân nhượng mầu nhiệm, nó nhắm sự hữu hiệu. Nó giản lược thực tại của
Giáo Hội vào cấu trúc của một tổ chức phi chính quyền. Điều có giá trị là kết qủa
có thể nhận thấy được và các thống kê. Từ đó người ta đi tới tất cả các kiểu doanh
nghiệp của Giáo Hội. Nó làm thành một loại ”thần học của sự phồn thịnh” trong khía
cạnh tổ chức mục vụ.
Cám dỗ thứ ba là chủ thuyết duy giáo sĩ, nó cũng là một
cám dỗ rất thời sự tại châu Mỹ Latinh. Một cách kỳ lạ là trong đa số các trường hợp
đây là một sự đồng lõa tội lỗi: cha sở giáo sĩ hóa giáo dân, và giáo dân xin cha sở
giáo sĩ hóa mình, bởi vì nói cho cùng thì tiện lợi hơn cho họ. Hiện tượng của khuynh
hướng giáo sĩ giải thích phần lớn sự thiếu trưởng thành và sự tự do Kitô nơi một phần
giáo dân châu Mỹ Latinh. Hoặc là không lớn lên, đó là trường hợp của đa số, hoặc là
ru rú dưới các lớp áo của các ý thức hệ hóa như đã thấy, hay có các dáng bề ngoài
một phần và hạn chế. Trong các vùng đất của chúng ta có một hình thức tự do giáo dân
qua các kinh nghiệm của dân chúng: tín hữu công giáo như là dân chúng. Ở đây người
ta thấy có một sự độc lập lớn hơn, nói chung lành mạnh, được diễn tả ra một cách nền
tảng trong lòng đạo đức bình dận. Chương nói về lòng đạo đức bình dân trong tài liệu
Aparecida miêu tả chiều kích này môt cách sâu xa. Đề nghị của các nhóm kinh thánh,
của các cộng đoàn giáo hội cơ bản, và của các Hội đồng mục vụ đi theo hướng vượt thắng
chủ thuyết duy giáo sĩ, và làm cho trách nhiệm của giáo dân lớn lên.
Chúng
ta có thể tiếp tục miêu tả vài cám dỗ khác chống lại tông đồ truyền giáo nhưng tôi
tin rằng các cám đỗ trên đây là các cám dỗ quan trọng nhất và trong lúc này có sức
mạnh lớn hơn tại châu Mỹ Latinh và quần đảo Caraibi.
Trong phần sau cùng của
diễn văn Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị vài tiêu chuẩn có tính cách giáo hội học.
Thứ nhất, việc làm môn đệ thừa sai, mà tài liệu Aparecida đề nghị với các Giáo Hội
châu Mỹ Latinh và vùng Caraibi, là con đường mà Thiên Chúa muốn cho ngày ”hôm nay”.
Tất cả dự phóng ảo tưởng (về tương lai) hay việc tái lập (qúa khứ) không phải là tinh
thần tốt. Thiên Chúa thực tại và biểu lộ ra trong ngày ”hôm nay”. Hướng về quá khứ,
sự hiện diện của Người được ban cho chúng ta như ”ký ức” của công trình cứu chuộc
vĩ đại trong dân Người cũng như nơi mỗi một người trong chúng ta; hướng về tương lai
nó được ban cho chúng ta như ”lời hứa” và niềm hy vọng. Trong qúa khứ Thiên Chúa đã
hiện diện và để lại bước chân của Người: ký ức giúp chúng ta gặp gỡ Người. Trong tương
lai nó chỉ là lời hứa... và không ở trong một ngàn lẻ một ”các điều có thể trong tương
lai”. Ngày ”hôm nay” là giống với đời đời nhất; còn hơn thế nữa ngày ”hôm nay” là
”tia sáng của vĩnh cửu”. Trong ”Hôm nay” người ta định đoạt cuộc sống vĩnh cửu.
Việc làm môn đệ thừa sai là ơn gọi: được gọi và được sai đi. Nó được ban cho ngày
”hôm nay” nhưng trong sự ”hướng tới”. Không có việc làm môn đệ thừa sai tĩnh một chỗ.
Người môn đệ thừa sai không thể chiếm hữu chính mình, cái tự tại của họ hướng tới
sự siêu việt của môn đệ thừa sai và sự siêu việt của sứ mệnh đó không chấp nhập việc
tự quy chiếu về chính mình: hoặc là họ quy chiếu về Chúa Giêsu Kitô, hoặc họ quy chiếu
người dân mà họ phải loan báo Tin Mừng cho. Chủ thể tự siêu việt. Chủ thể dự phóng
về cuộc gặp gỡ: cuộc gặp gỡ với Thầy Giêsu, là Đấng xức dầu biến chúng ta thành môn
đệ, và cuộc gặp gỡ với những người chờ đợi việc loan báo.
Chính vì thế tôi
thích nói rắng thế đứng của người môn đệ thừa sai không phải là một thế đứng trung
tâm, nhưng ở ngoại ô: họ sống hướng về các vùng ngoại ô... bao gồm cả các vùng ngoại
ô của sự vĩnh cửu trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô. Trong việc loan báo Tin Mừng,
nói về các ”vùng ngoại ô của cuộc sống” là phân tâm, và chúng ta thường sợ hãi ra
khỏi trung tâm. Người môn đệ thừa sai được mời gọi đi tới các vùng ngoại ô của cuộc
sống.
Tiêu chuẩn Giáo Hội học thứ hai. Giáo Hội là cơ cấu, nhưng khi Giáo
Hội đứng lên ở trung tâm, thì nó hoạt động và từ từ biến thành một tổ chức phi chính
quyền. Khi đó Giáo Hội yêu sách có ánh sáng riêng của mình, và thôi là ”mầu nhiệm
của mặt trăng” như các Giáo Phụ nói với chúng ta. Càng ngày Giáo Hội càng tự lấy mình
làm điểm quy chiếu, và sự cần thiết truyền giáo yếu kém đi. Từ ”Cơ cấu” Giáo Hội biến
thành ”Công trình”. Giáo Hội thôi là Hiền Thê để sau cùng là Người quản trị, từ Nữ
tỳ biến thành ”Người kiểm soát”. Hội nghị Aparecida muốn có một Giáo Hội Hiền Thê,
Mẹ, Nữ tỳ, người tạo dễ dàng cho đức tin, chứ không phải người kiểm soát đức tin.
Tiêu chuẩn giáo hội học thứ ba. Tại Aparecida chúng ta đã chú ý đến hai phạm trù mục
vụ phát xuất một cách độc đáo từ Tin Mừng, và cũng có thể được dùng như tiêu chuẩn
giúp lượng định giá trị kiểu cách, trong đó chúng ta sống ơn gọi môn đệ thừa sai một
cách giáo hội: đó là sự gần gũi và việc gặp gỡ.
Không có điều nào mới cả,
nhưng chúng làm thành mô thức trong đó Thiên Chúa đã tự mặc khải trong lịch sử. Đó
là vì ”Thiên Chúa gần gũi” dân Người, sự gần gũi đạt tột đỉnh với việc nhập thể. Đó
là vì Thiên Chúa đi ra để gặp gỡ dân Người. Bên châu Mỹ Latinh và vùng Caraibi có
các mục vụ ”xa cách”, mục vụ kỷ luật, dành ưu tiên cho các nguyên tắc, các thái độ,
các tiến trình tổ chức... hiển nhiên là không gần gũi, không dịu hiền, không vuốt
ve. Người ta không biết tới cuộc ”cách mạng của sự hiền dịu” khơi dậy sự nhập thể
của Ngôi Lời. Có các mục vụ áp đặt với một độ xa cách tới nỗi không có khả năng đưa
tới cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, và với người anh em. Từ loại mục vụ này cùng
lắm chỉ có thể chờ đợi một chiều kích chiêu dụ tín đồ, nhưng chúng không bao giờ đưa
tới chỗ đạt được việc tháp nhập vào Giáo Hội cũng như thuộc về Giáo Hội. Sự gần gũi
chiếm hữu được hình thái đối thoại, và tạo ra một nền văn hóa gặp gỡ. Bài giảng là
một viên đá so sánh giúp điều chỉnh sự gần gũi và khả năng gặp gỡ của một mục vụ.
Các bài giảng như thế nào? Chúng đưa chúng ta tới gần gương mẫu của Chúa chúng ta,
là Đấng ”nói như ngươi có uy tín”, hay chúng chỉ là giáo điều, xa vằng và trừu tượng?
Tiêu chuẩn giáo hôi học thứ bốn là Giám Mục, Người hướng dẫn mục vụ, hướng dẫn Sứ
mệnh đại lục, có chương trình cũng như là mô thức. Vị Giám Mục phải hướng dẫn thì
khác với việc ngồi chễm chệ như ông chủ. Ngoài việc nhấn mạnh các gương mặt vĩ đại
của hàng Giám Mục châu Mỹ Latinh mà chúng ta tất cả đều biết, tôi ước muốn thêm ở
đây vài đường nét liên quan tới chân dung của vị Giám Mục, mà tôi đã trình bầy với
các vị Sứ Thần trong cuộc họp chúng tôi đã có tại Roma.
Các Giám Mục phải
là các Mục Tử, gần gũi với dân chúng, là người cha, người anh em, với nhiều hiền dịu,
kiên nhẫn và thương xót. Là những người yêu sự khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm như
sự tự do trước mặt Chúa, cũng như sự khó nghèo bên ngoài như sự đơn sơ và khắc khổ
của cuộc sống. Là những người không có ”tâm lý của các ông hoàng”. Là những người
không tham vọng và là các phu quân của một Giáo Hội chứ không đợi chờ một Giáo Hội
khác. Là những người có khả năng thức tỉnh trên đoàn chiên đã được giao phó, và săn
sóc tất cả những gì duy trì doàn chiên hiệp nhất: canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các
hiểm nguy có thể đe dọa nó, nhưng nhất là làm cho niềm hy vọng lớn lên: ước gì các
Mục Tử ấy có mặt trời và ánh sáng trong tim. Là những người có khả năng nâng đỡ các
bước đi của Thiên Chúa nơi dân Người với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn. Và có
ba chỗ của Giám Muc ở với dân mình: hoặc là ở đàng trườc để chỉ đường, hay ở giữa
để duy trì đoàn chiên hiệp nhất và trung lập hóa các tán loạn, hoặc ở đàng sau để
tránh cho ai đó ở lại đàng sau, nhưng cũng một cách nền tảng, để cho chính đoàn chiên
đánh hơi hầu tìm ra các con đường mới.
Tôi không muốn nói nhiều hơn đến các
chi tiết sau cùng về con người của vị Giám Mục, nhưng chỉ xin thêm một cách đơn sơ,
bao gồm cả tôi nữa trong khẳng định này: là chúng ta hơi chậm trễ trong những gì quy
chiếu về sự Hoán cải mục vụ. Thật thích hợp là chúng ta giúp nhau nhiều hơn một chút
để làm các bước đi mà Chúa muốn cho chúng ta trong ngày ”hôm nay” này của châu Mỹ
Latinh và vùng Caraibi. Và thật tốt là bắt đầu từ đây.
Tôi xin cám ơn anh
em đã kiên nhẫn lắng nghe tôi. Xin tha lỗi cho diễn văn vô trật tự của tôi, và tôi
xin anh em, chúng ta hãy nghiêm chỉnh ý
thức về ơn gọi của chúng ta là phục
vụ Dân thánh trung thành của Thiên Chúa, vì chính ở đây chúng ta thực thi và cho thấy
quyền bính: trong khả năng phục vụ. Xin cám ơn anh em.