Tổng kết ý nghĩa Kinh Mân Côi trong tình hình giáo lý sùng mộ và việc canh tân Kinh
Mân Côi hiện nay
Loạt bài dài về nguồn gốc và ý nghĩa của Kinh Mân Côi đã giúp chúng ta hiểu Kinh Mân
Côi là lời cầu đơn sơ, bao gồm ba lời kinh mà mọi Kitô hữu đều thuộc: Kinh Lậy Cha,
Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh.
Kinh Mân Côi là lời kinh của người nghèo,
vì là lời kinh ưa thích của các tâm hồn khiêm hạ, nhưng nhất là bởi vì nó là lộ trình
dẫn đưa tín hữu tới sự đơn sơ và tinh thần nghèo khó.
Kinh Mân Côi là lời kinh
chiêm niệm, vì nó là trường dậy tín hữu biết chiêm ngắm các mầu nhiệm chính trong
cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế.
Kinh Mân Côi là lời kinh giảng dậy,
vì nó là phương pháp sư phạm đơn sơ và bình dân giúp giảng giáo lý và trình bầy đức
tin.
Kinh Mân Côi là lời kinh theo tiết nhịp của cuộc sống thường ngày, vì
giúp tín hữu vun trồng lòng yêu mến sùng mộ thân tình với Mẹ Thiên Chúa để cùng Mẹ
bước vào trong các mầu nhiệm của Chúa Kitô con Mẹ, và sống các mầu nhiệm ấy để được
biến đổi.
Kinh Mân Côi là lời kinh sáng tạo, vì nó giúp chúng ta kiểm thực
mức độ lòng tin và tương quan của chúng ta với Chúa Kitô trong tư tưởng lời nói và
việc làm.
Sau cùng Kinh Mân Côi là lời kinh dẫn đưa chúng ta vào trong phụng
vụ cử hành các mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô, được dưỡng nuôi bằng Thánh Kinh, bởi
vì Kinh Mân Côi cũng chiêm niệm cùng các mầu nhiệm ấy.
Việc canh tân thánh
mẫu học, do sự thức tỉnh của các khoa kinh thánh, giáo phụ và giáo hội học, đã đem
đến cho Kitô giáo một sự phong phú vĩ đại. Nó cũng tạo ra các ảnh hưởng tốt trong
nền thánh mẫu học, và giúp Kitô hữu tái khám phá ra chân dung Mẹ Maria như mẫu gương
của cuộc sống Kitô. Các phong trào này đã làm nảy sinh ra phương pháp tìm hiểu biện
chứng, đối nghịch và phân biệt, để sau đó đi tới chỗ tổng kết và hiệp nhất.
Khi đặt để Lời Chúa vào chỗ nhất, phong trào kinh thánh đã giúp trông thấy nơi Đức
Maria người được chúc phúc ”vì đã tin”. Nó không chỉ vén mở cho thấy nhiệm vụ quan
phòng của Mẹ Chúa trong chương trình cứu độ và ơn gọi của Mẹ, mà cũng còn trình bày
với chúng ta Đấng là người đầu tiên đã nhận lãnh và nhập thể ơn Tin Mừng. Trong Kinh
Mân Côi chúng ta được liên tục mời gọi lắng nghe Lời Chúa và chiêm ngắm các kỳ công
Chúa làm cho loài người chúng ta.
Phong trào giáo phụ đã đặt để đề tài nhập
thể lên hàng đầu, và đây là đề tài nổi bật trong Kinh Mân Côi.
Phong trào
giáo hội học thì đặt để Mẹ Maria ở trọng tâm của Giáo Hội như là ”hình ảnh và mẫu
gương”, và đã đưa ra ánh sáng nhiệm vụ không thể thay thế được của Mẹ. Kinh Mân Côi
là trường học, nơi tín hữu học với Mẹ Maria và noi gương Mẹ sống mầu nhiệm cứu độ.
Phong trào phụng vụ đã đưa lòng sùng mộ Mẹ Maria trở về với một sự trung thực và một
tương quan nòng cốt với các mầu nhiệm của Chúa Kitô. Kinh Mân Côi là việc thực hành
đạo đức trung thành đồng thuận với phụng vụ thánh. Học giả Bouyer khẳng định rằng:
”Hơn tất cả mọi việc thực hành đạo đức khác, Kinh Mân Côi chắc chắn là việc thực hành
đạo đức có thể được tái sinh và đuyệt xét trở lại dưới ánh sáng của phụng vụ. Sự đơn
sơ của nó, bầu khí tinh tuyền và chiêm niệm tin mừng của nó khiến cho Kinh Mân Côi
là một con đường dễ dàng để trải dài việc chiêm niệm phụng vụ ra trong suốt cuộc sống
thường ngày” (L. Bouyer, La vie de la liturgie, Ed. Cerf, Paris 1960,308).
Các thành kiến đối với các việc sùng mộ nói chung, và một cách đặc biệt đối với Kinh
Mân Côi, từ từ rơi rụng, trong khi người ta chiếm hữu được sự sáng suốt và khách quan
lớn hơn đối với Kinh Mân Côi. Đối với vài khía cạnh điều này cho thấy rõ cuộc khủng
hoảng mà Kinh Mân Côi phải chịu. Nó đã không được dung tha bởi men của các thời đại
sau này cũng như lời cầu nguyện cộng đoàn và riêng tư đã không được dung tha. Các
cộng đoàn tín hữu có truyến thống gắn bó với Kinh Mân Côi như tại Ailen, Italia, châu
Mỹ Latinh và Tây Ban Nha vv... cũng đã gánh chịu hậu qủa của cuộc khủng hoảng này.
Trong nguồn gốc của nó có nhiều lý do, nhưng có thể tập trung chúng vào trong hai
đặc thái sau đây: thứ nhất là cuộc khủng hoảng của lời cầu nguyện sùng kính, trầm
trọng vì sự tục hóa và các chủ thuyết nhân bản mới bị ý thức hệ hóa; thứ hai, cuộc
khủng hoảng của lòng tôn sùng Mẹ Maria là bối cảnh sống còn tự nhiên của Kinh Mân
Côi. Cuộc khủng hoảng còn đả thương Kinh Mân Côi trong cấu trúc của nó là lời cầu
nguyện thầm trong trí và đọc lớn tiếng bên ngoài, trong cái khó khăn của việc suy
ngắm và trong sự từ chối việc lập đi lập lại một lời kinh, bị tố cáo là máy móc vô
hồn. Các khó khăn này có tầm nghiêm chỉnh của chúng, và không thể trả lời với các
kiểu nói quen thuộc được.
Cần phải đọc hiểu cuộc khủng hoảng này trên hai
chiều kích: một chiều kích triệt để hơn liên quan tới cuộc khủng hoảng của việc cầu
nguyện, và một chiều kích mà chúng ta có thể định nghĩa là chuyên biệt hơn, khiến
cho người ta coi Kinh Mân Côi là một lời kinh máy móc, khô khan, nhàm chán, không
sống động.
Liên quan tới khía cạnh thứ nhất chỉ cần nói rằng không phải cải
tổ Kinh Mân Côi là có thể đem lại giải pháp cho cuộc khủng hoảng của việc cầu nguyện.
Trong khi các cố gắng cập nhật hóa muốn minh nhiên các khó khăn tâm lý và thực tế,
mà người ta cảm thấy đối với Kinh Mân Côi từ phía những người vẫn còn yêu thích lần
hạt Mân côi.
Thật ra, tại nhiều nơi bên cạnh kiểu lần hạt Mân Côi truyền thống,
vì các lo lắng mục vụ người ta cũng đã bắt đầu các hình thức lần hạt Mân Côi khác,
có mục đích chính xác là dành ưu tiên cho sức mạnh của Kinh Mân côi và cho thấy rõ
ràng quyền năng định đoạt của chính nó. Chẳng hạn trong các hình thức mới này có việc
đọc các văn bản kinh thánh liên quan tới các mầu nhiệm suy gẫm. Nghĩa là không chỉ
tóm tắt mầu nhiệm mà đọc chính bản văn kinh thánh trình bầy mầu nhiệm đó. Thế rồi
việc đọc Kinh Kính Mừng được rút ngằn lại chỉ giữ lại phần đầu, tức lời Thiên Thần
Gabriel chào Đức Trinh Nữ mà thôi. Còn phần hai của Kinh Kính Mừng chỉ được đọc vào
cuối chục kinh, để nhấn mạnh vẻ đẹp của lời khẩn cầu luôn luôn diễn tả lòng sùng mộ
của Giáo Hội đối với Đức Trinh Nữ, và là lời khẩn nài tín hữu dâng lên Mẹ, sau khi
đã suy ngắm mầu nhiệm cuộc đời của Chúa.
Như thế, được tóm tắt các ước khoản
giúp ghi nhớ, mà thánh Alberto thành Castello đã kinh nghiệm và tóm tắt các ý chỉ
cầu nguyện với những khoảng thinh lặng. Sự thinh lặng cần thiết phải được đánh giá
trở lại trong phụng vụ và cả trong các buổi lần hạt Mân Côi nữa. Kinh Lậy Cha và Kinh
Vinh Danh có thể được hát, và như thế làm sống dậy tính cách ca đoàn của việc cầu
nguyện. Trong hình thái mới này bản chất Kinh Mân Côi vẫn nguyên vẹn, nhưng tín hữu
chỉ muốn trải rộng cái nhìn chiêm niệm ra để được thấm nhuần các mầu nhiệm của Chúa
nhiều hơn. Ngoài ra cũng có các buổi lần hạt Mân Côi trước Chúa Giêsu Thánh Thể, và
theo sau đó là buổi Chầu Mình Thánh Chúa.
Có một hình thái canh tân khác nữa
đó là việc cử hành Kinh Mân Côi trong hình thái của buổi cử hành Lời Chúa. Tuy không
phải là phụng vụ chính cống nhưng nó rút tiả ra các linh hứng từ phụng vụ và được
thích ứng vào đó. Nghĩa là bắt đầu buổi đọc Kinh Mân Côi bằng cách chuẩn bị tâm hồn
tín hữu tham dự vào một cách cá nhân và sống động hơn theo các thời gian phụng vụ
khác nhau, và kéo dài các hiệu qủa của nó trong nội tâm. Dưới hình thức này người
ta thấy rõ hơn vai trò của Kinh Mân Côi nhằm trợ giúp tín hữu chuẩn bị cho các chu
kỳ phụng vụ trong năm như Mùa Vọng - Mùa Giáng Sinh, Mùa Chay - Mùa Phục Sinh và lễ
Chúa Thánh Thàn hiện xuống. Nhưng đây vẫn còn là hình thái thử nghiệm.
Còn
có một hình thái khác gọi là ”Kinh Mân Côi sống” trong gia đình hay trong cộng đoàn.
Mỗi một thành phần trong gia đình hay nhóm hoặc cộng đoản nhận suy niệm một mầu nhiệm
và lần một chục trong chuỗi Mân Côi. Như thế, nếu gia đình hay nhóm có 5 người, thì
tuy không lần hết 50 chục kinh, nhưng vì đã đồng ý hiệp nhất với nhau trong ngày nên
cũng đã được một chuỗi Mân Côi rồi.
Khó mà có thể thấy trước được con đường
tương lai, nhưng chúng đã được chấp thuận. Tuy nhiên, cũng có các hình thức thử nghiệm
làm sai lạc tinh thần của lời kinh này, hay với việc bỏ hoàn toàn yếu tố kinh cầu,
hoặc với phần giải thích suy niệm và giảng giải kinh thánh qúa dài hoặc gia tăng các
mầu nhiệm vv... Các nỗ lực này có thể làm sai lac tinh thần của Kinh Mân Côi như đã
được hình thành qua một tiến trình lịch sử rất dài.