Một vài thí dụ điển hình liên quan tới sự hạn hẹp và điều kiện hóa ngăn cản sự tự
do của con người
Lần trước chúng ta đã duyệt xét một số vấn đề nảy sinh trong tương quan giữa luân
lý và sự tự do. Con người là một bản vị có tự do vì có khả năng lựa chọn. Nhưng sự
tự do của con người là một thứ tự do bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, của
hoàn cảnh và vị trí trong đó nó sinh sống. Sự kiện con người là sản phẩm của gia đình,
xã hội phải sống trong các hoàn cảnh địa lý, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và
tôn giáo xác định khác nhau khiến cho sự tự do của nó bị hạn hẹp và điều kiện hóa
rất nhiều. Chính các yếu tố điều kiện hóa này ngăn cản sự tự do của con người, khiến
cho con người không hoàn toàn được tự do lựa chọn điều nó muốn và sống theo cung cách
nó muốn. Ngay cả ý niệm về sự tự do cũng đã là một hạn hẹp rồi, bởi vì tự do không
có nghĩa là ”muốn làm gì thì làm.”
Chúng ta hãy bắt đầu với các yếu tố địa
lý. Một người sinh ra trong một vùng sa mạc khô cằn, nóng cháy ban ngày nhưng giá
buốt ban đêm, phải nhận chịu các điều kiện khí hậu đặc thù khắc nghiệt của sa mạc.
Và nếu không chu du đây đó, họ sẽ không bao giờ biết đến và cảm nghiệm được khí hậu
của những vùng đất có nhiều sông hồ, rừng cây và đồng cỏ tươi mát, hay của những vùng
duyên hải có biển và đại dương trước mặt. Ai trong chúng ta cũng phải nhận chịu các
yếu tố địa lý của quê sinh, và không thể có các cung cách sống của những người thuộc
các vùng địa lý có các đặc thái khác. Các yếu tố địa lý này không chỉ ảnh hưởng trên
diện mạo và cấu trúc cơ thể, mà cũng chi phối sự hiểu biết, các thói quen và cả tính
tình của chúng ta nữa. Con người là sản phẩm của môi trường, trước hết là môi trường
địa lý với tất cả các đặc thái bao gồm cả khí hậu, khung cảnh sống, nhà ở, thực phẩm
và cung cách ăn uống nữa.
Thứ hai là các yếu tố chính trị. Một trẻ em sinh
trưởng tại các nước Tây âu có chế độ dân chủ tự do, tôn trọng và thăng tiến các quyền
bẩm sinh bất khả nhượng của con người, thì đã được hưởng các quyền ấy ngay từ lúc
còn là bào thai trong lòng mẹ. Bởi vì trong khung cảnh sống của gia đình và xã hội
dân chủ tự do, con người có các quyền công dân được chính phủ tôn trọng và bảo đảm.
Trong các xã hội ấy trẻ em và người trẻ được khuyến khích nói lên các suy tư riêng,
các ước muốn, các bất đồng, các tâm tình của chúng, và chia sẻ các cảm nghiệm của
chúng với cha mẹ, thầy cô, bạn bè và người lớn. Chúng được dậy dỗ phát huy các khả
năng bẩm sinh của mình trong mọi lãnh vực tâm sinh vật thể lý, tinh thần và thiêng
liêng; đồng thời hiểu biết các quyền lợi và bổn phận đối với chính mình, đối với tha
nhân và cộng đoàn gia đình, học đường và xã hội. Trong các xã hội có thể chế chính
trị dân chủ tự do ấy mọi công dân đều có các quyền tự do như nhau: tự đo ăn nói, phát
biểu, đi lại, hội họp, thành lập các hiệp hội, gia nhập các nghiệp đoàn và các đảng
phái chính trị, bỏ phiếu, xuống đường đình công, biểu tình, phê bình phản đối chính
quyền, khi chính quyền sai trái. Lý do là vì chính quyền được dân bầu lên và được
dân đóng thuế trả lương là để lo cho công ích, đáp ứng các nhu cầu của người dân,
và phát triển cuộc sống quốc gia đất nước, bảo đảm an sinh cho dân; chứ không phải
để gian tham hối lộ, ăn cắp của công, đàn áp dân chúng, củng cố quyền lực phe nhóm
hay đảng phái của mình và biến guồng máy cai tri thành tổ chức tội phạm.
Các
trẻ em sinh ra trong các xã hội có chính quyền độc tài đảng trị, đặc biệt là các chế
độ cộng sản duy vật vô thần, điển hình như Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam,
thì không biết đến các quyền tự do dân chủ, an sinh và các quyền con người là gì.
Tuy giới lãnh đạo của cả hai chính quyền Trung Quốc và Việt Nam từ lâu đã trở thành
tư bản đỏ, nhưng họ vẫn duy trì cung cách tổ chức độc tài sắt máu vô nhân của chế
độ xã hội chủ nghĩa để tiếp tục nô lệ hóa đất nước và rúc rỉa, bòn mót, hút máu toàn
dân. Các thể chế chính trị độc tài như thế không chỉ giới hạn và điều kiện hóa sự
tự do của người dân, mà còn tìm mọi cách tước đoạt, cướp trắng và bức tử nó nữa. Tại
nhiều quốc gia có chế độ quân phiệt hay độc tài loại khác tuy không đến nỗi tệ hại
như các nước kể trên, nhưng nhiều quyền tự do của người dân cũng bị hạn chế và kiểm
soát.
Thứ ba là các giới hạn tự do trong lãnh vực kinh tế. Chính trị và kinh
tế luôn đi đôi với nhau. Trong một xã hội tự do dân chủ nền kinh tế thường phát triển
mạnh, vì mọi công dân đều có quyền tự do buôn bán, kinh doanh, đầu tư phát triển,
cạnh tranh và tận dụng mọi tài khéo cũng như khả năng tái chánh kinh tế của mình.
Các chính quyền dân chủ tự do thường khuyến khích, dành mọi dễ dãi và trợ giúp cả
tài chánh cho các dự án tạo công ăn việc làm cho dân và giúp phát triển đất nước.
Thường khi chính quyền cũng có cổ phần trong các dự án đó. Trái lại, trong các nước
có chế độ độc tài đảng trị kiểu xã hội chủ nghĩa, tuy nhà nước luôn lải nhải rêu rao
”độc lập tự do hạnh phúc”, nhưng người dân phải ”làm kinh tế theo định ướng xã hội
chủ nghĩa” và bị đối xử tàn tệ hơn súc vật, vì ngay cả các quyền tự do tối thiểu của
người dân cũng không hề được tôn trọng.
Trong cuộc sống bị kìm kẹp tứ bề đó
tất cả đều nằm phải dưới sự kiểm soát và chỉ đạo của nhà nước, và phải theo sát các
chỉ thị của nhà nước gọi là ”đường hướng xã hội chủ nghĩa”, không cần phải biết đúng
hay sai, phải hay trái, ích lợi hay thiệt hại; lời lỗ, chạy hay không chạy, không
thành vấn đề, miễm là tất cả phải tuân hành đường lối của đảng. Và các đường lối chỉ
đạo là do những người lãnh đạo giữ chức cao chỉ vì có nhiều tuổi đảng, chứ không phải
là những người tài đức, học cao hiểu rộng. Trái lại, có khi họ còn không biết đọc
biết viết và chưa học xong tiểu học. Giờ đây để tỏ ra là người thông thái có học,
họ mua bằng cấp và học vị, ai cũng bốn năm cái tiến sĩ, thạc sĩ, nhưng tất cả chỉ
là giấy, vì lực học thì vẫn ở mức tiểu học. Có khi còn tệ hơn vì ”càng về già càng
lú lẫn”, hay còn sáng suốt nhưng chỉ biết ăn chơi trác tác với tiền của ăn cướp của
nhân dân. Biết đó là chuyện hoàn toàn giả dối, nhưng họ thích có ảo tưởng mình học
thức, vì có bằng thì phải giỏi chứ! Trong một xã hội có hàng lãnh đạo như thế, các
quyền tự do của người dân lại càng bị hạn chế và điều kiện hóa nhiều hơn. Do đó, không
lạ gì khi các sinh viên học sinh hay bất cứ ai biểu tình hay bầy tỏ lòng yêu nước
và bảo vệ quyền lãnh thổ, hay bênh vực các quyền con người, thì lại bị công an cảnh
sát bắt bớ, đánh đập, bỏ tù và bị chính quyền bán nước xử án nặng nề với các tội danh
dối trá bịa đặt.
Không cần phải dài dòng, ai cũng có thể hiểu rằng các trẻ
em sinh ra trong một môi trường xã hội gian dối, bạo lực và đồi tệ như thế phải thiệt
thòi chừng nào, vì bầu khí xã hội các em phải hít thở đã bị ô nhiễm trầm trọng trên
tất cả mọi bình diện, đặc biệt là văn hóa, luân lý và tinh thần.
Tuy nhiên,
các chướng ngại và hạn chế quyền tự do cũng hiện diện trong cả các xã hội nổi tiếng
là tư do dân chủ, tuy trong mức độ ít hơn. Chẳng hạn như từ vài năm qua tại Hoa Kỳ
và các tây âu người ta đã chứng kiến sự kiện quyền tự do tôn giáo và tự do lương tâm
của người dân cũng bị vi phạm, từ phía các chính quyền duy đời cực đoan, khiến cho
các vị lãnh đạo tôn giáo liên tục lên tiếng phản đối. Điển hình như lá thư bênh vực
tự do lương tâm các vị lãnh đạo Công Giáo và Tin Lành nam Hoa Kỳ gửi chính quyền của
tổng thống Barack Obama ngày 21-6-2013, kêu gọi quốc hội thông qua luật bảo vệ tự
do lương tâm trong lãnh vực y tế. Lá thư mang chữ ký của Đức Cha William Lori, Tổng
Giám Mục giáo phận Baltimore, Chủ tịch Ủy ban Giám Mục Mỹ về tự do tôn giáo, và mục
sư Russel Moore, Chủ tịch Ủy ban đạo đức và tự do tôn giáo của Giáo Hội Tin Lành nam
Hoa Kỳ. Trong thư các vị khẳng định rằng: ”Có nhiều người sắp bị cưỡng bách phải theo
điều mà chính phủ bắt buộc phải chịu đau khổ vì đức tin. Nay là lúc quốc hội Mỹ cần
thông qua luật bảo vệ quyền tự do Thiên Chúa ban. Một trong những quan tâm gần nhất
là bộ y tế và các cơ cấu phục vụ con người bó buộc hầu như tất cả các tổ chưc tư nhân
phải cung cấp các bảo hiểm ngừa thai và làm tuyệt đường sinh sản cho nhân viên phụ
nữ. Mặc dù có những lời trấn an, nhưng những quy định của bộ y tế Hoa Kỳ về việc bảo
vệ tự do tôn giáo và lương tâm vẫn không thích hợp. Vô số các tổ chức không mưu lợi
hoặc mưu lợi đều phải tuân hành mệnh lệnh của chính phủ, trái ngược với tín ngưỡng
của họ, hoặc nếu theo lương tâm của mình, thì ho sẽ phải trả tiền phạt nặng nề hay
không còn có thể thi hành nghề nghiệp và thừa tác vụ của họ nữa.”
Đức Cha
Lori và Mục sư Moore nói thêm rằng: ”Tuy các tín hữu công giáo và tin lành nam Hoa
Kỳ có những quan điểm thần học khác nhau, nhưng chúng tôi được liên kết nhờ xác tín
rằng quốc hội phải hành động để giúp bảo vệ tự do tôn giáo và lương tâm” (CNS 21-6-2013).
Ngày mùng 1-7-2012 Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã ra thông cáo mạnh mẽ phản đối luật
y tế do tổng thống Obama ban hành, bắt buộc các người cho việc phải cung cấp thuốc
ngừa thai và trả chi phí phá thai cũng như làm tuyệt đường sinh sản cho các nữ nhân
viên của mình. Luật này hoàn toàn trái ngược với luân lý kitô cũng như luân lý tự
nhiên và vi phạm trầm trọng quyền tự do tôn giáo và tự do lương tâm của các kitô hữu
cũng như toàn dân Mỹ.
Trong khi đó tại các nước Âu châu các chính quyền và
giới chức chính trị duy đời cực đoan liên tục tấn công các Giám Mục, tìm mọi cách
để bịt miệng các vị lãnh đạo tôn giáo và gạt bỏ các Giáo Hội Kitô ra ngoài lề xã hội.
Sự kiện này cũng khiến cho Kitô giáo là tôn giáo bị bách hại và kỳ thị nhất trên thế
giới vì có tới 200 triệu tín hữu bị sách nhiễu, bắt bớ và nhiều khi bị sát hại vì
đức tin.