Trong truyền thống kinh thánh dầu ô liu có một tầm quan trọng rất lớn. Nó đã không
chỉ là dấu hiệu của niềm vui, sự giầu có và niềm hạnh phúc, mà còn được coi như là
một phương dược có khả năng đem lại sức khỏe, hay làm dịu các đau đớn của thân xác
và củng cố sức mạnh cho con người nữa. Trong bài ca mừng hôn lễ Quân vương, tác giả
Thánh Vịnh 45 viết: ”Ngôi báu Thiên Chúa tặng ban cho ngài sẽ trường tồn vạn kỷ, vương
trượng ngài, vương trương công minh; ngài ưa điều chính trực, ghét điều gian ác. Chính
vì vậy, Chúa là Thiên Chúa của ngài đã tôn phong ngài vượt trổi các đồng liêu mà xức
cho dầu thơm hoan lạc” (Tv 45,7-8). Chương 27 sách Châm Ngôn thì nói: ”Dầu và hương
thơm làm phấn khởi lòng người, tình bạn ngọt ngào giúp tinh thần thêm vững mạnh” (Cn
27,9). Còn ngôn sứ Isaia miêu tả ơn gọi của vị ngôn sứ trong chương 61 như sau: ”Thần
Khí của Giavê là Thiên Chúa ngự trên tôi, vì Thiên Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
sai đi báo tin cho người nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân
xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân
của Giavê, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta. Người sai tôi đi yên ủi những
kẻ khóc than, tặng cho những kẻ khóc than ở Sion tấm khăn đại lễ thay tro bụi, dầu
thơm hoan lạc thay tang chế, áo ngày lễ hội thay tâm thần sầu não” (Is 61,1-3).
Khi báo cho dân Israel biết Thiên Chúa sẽ chấm dứt các năm đi đầy bên Babihlonia và
cho họ hồi hương, ngôn sứ Giêrêmia tả cuộc sống sung túc tại quê cha đất tổ và viết
trong chương 31: ”Họ sẽ reo mừng đi tới đỉnh Sion, lũ lượt kéo nhau về hưởng ân lộc
Giavê. Nào lúa thơm rượu mới dầu tươi, nào bò bê cùng với chiên cừu. Lòng thỏa thuê
như vườn cây tưới nước, họ chẳng còn mỏi mệt héo hon” (Gr 31,12). Tác giả thánh vịnh
91 thì khẳng định Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực ”xức dầu thơm mát” cho thân
thể người công chính (Tv 91,11).
Còn tác giả Thánh vịnh 104 chúc tụng tình
yêu thương của Thiên Chúa Tạo Hóa đối với con người như sau: ”Ngài khiến mọc cỏ xanh
nuôi sống đàn gia súc, làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất
họ kiếm ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương
mặt sáng tươi, nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ” (Tv 104,15).
Trong khi tác
giả thánh vịnh 133 thì ca ngợi cảnh anh em trong gia đình sống thuận hòa như sau:
”Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau, như dầu qúy đổ trên
đầu, xuống râu xuống cổ áo chầu Aharon” (Tv 133,1-2).
Trong thời cựu ước cùng
với bò, dê, cừu, bồ câu và chim cu gáy và tinh bột, dầu ô liu là một trong các sản
phẩm trong các lễ vật tín hữu Do thái dâng cho Thiên Chúa như tả trong sách Lêvi.
Dầu ô liu cũng được dùng để xức trong các lễ nghi phong chức tư tế, như ông Môshê
đã làm đối với ông Aharon (Xh 29,7), hay trong trường hợp của các Thượng Tế được xức
dầu thánh hiến (Lv 21,10).
Nhất là trong cuộc sống thường ngày người xưa dùng
dầu để băng bó các vết thương. Trong chương 1 ngôn sứ Isaia tả cảnh thảm thương của
dân Israel như sau: ”Từ bàn chân cho đến đỉnh đầu, chẳng còn nơi lành lặn: vết bầm,
vết đánh, vết thương còn mới, chưa có ai lau chùi, chưa có ai băng bó, chưa có ai
thoa dầu” (Is 1,6). Ngôn sứ Edekiel miêu tả những săn sóc mà Thiên Chúa dành cho Israel
là một bé gái mới sinh đã bị bỏ rơi ngoài đồng như sau: ”Ta đã lấy nước tắm rửa, gột
sạch máu me, rồi xức dầu thơm cho ngươi” (Ed 16,9). Trong dụ ngôn người Samaritano
nhân hậu thánh sử Luca kể rằng khi thấy người bị cướp đánh trọng thương nằm giữa đường
từ Giêrusalem tới Giêricô, ”ông ta chạnh lòng thương, lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ
lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy lên lưng lừa của mình,
đưa về quán trọ mà săn sóc” (Lc 10,33-34).
Dầu ô liu cũng thường được dùng
để xoa bóp, gia tăng sức mạnh cho da và các cơ bắp trên thể con người. Chính nhờ các
phẩm chất của nó và do ơn thánh Chúa ban, người được xức dầu thánh hiến có thể làm
được các điều ngoại thường. Điển hình như biến cố ông Saul đựơc ngôn sứ Samuel xức
dầu phong vương như kể trong chương 10 sách Samuel I (1 Sm 10,1-6), hay vụ ngôn sứ
Samuel xức dầu phong vương cho chú bé Davít con ông Giêssê, như trình thuật trong
chương 16 sách Samuel I (1 Sm 16,1-13; x. 2 Sm 23,1-2). Đấng Cứu Thế cũng được Thiên
Chúa xức dầu tấn phong và giao cho các nhiệm vụ cao qúy, như ngôn sứ Isaia đã miêu
tả trong chương 61. Văn bản này đã được Đức Giêsu áp dụng cho chính Người và sứ mệnh
cứu thế của Người, khi giảng dậy trong hội đường làng Nagiarét (Lc 4,18-19). Qua các
văn bản nói trên chúng ta có thể nói rằng việc xức dầu giống như phương cách Thần
Khí của Thiên Chúa, thấm nhập và biến đổi các người được Thiên Chúa tuyển chọn, và
ban cho họ sức mạnh và các khả năng đặc biệt cần thiết thích hợp với ơn gọi của họ:
ơn gọi là vua, là tư tế hay là ngôn sứ.
Liên quan tới Thần Khí thánh Gioan
hai lần nói về ciệc ”xức dầu (chrisma), mà Kitô hữu đã nhận được và nó cho phép họ
phân biệt giáo lý thật với giáo lý giả. Thánh nhân viết trong chương 2 thư thứ I như
sau: ”Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được
ơn hiểu biết” (1 Ga 2,20). Và thánh nhân lập lại trong câu 27 cùng chương: ”Phần anh
em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần
ai dạy đỗ nữa. Nhưng vì dầu của Người dạy đỗ anh em mọi sự - mà dầu ấy dạy sự thật
chứ không phải sự dối trá - thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong
Người” (1 Ga 2,27).
Mặc dù không loại trừ việc quy chiếu về bí tích Rửa Tội,
ở đây thánh Gioan đề cập tới Chúa Thánh Thần, mà tín hữu đã lãnh nhận qua bí tích
Rửa Tội. Nó là bí tích dẫn đưa tín hữu ”vào trong tất cả sự thật”. Thánh Gioan ghi
lại các lời Chúa Giêsu dặn dò các tông đồ trong bữa Tiệc Ly và viết trong chương 14
như sau: ”Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ
dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con”
(Ga 14,26).
Xa hơn Chúa Giêsu nói: ”Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ
sai đến với các con từ nơi Chúa Cha, Người là thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha,
Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26). Cũng trong khung cảnh của Bữa Tiệc Ly, Chúa
Giêsu nói thêm với các tông đồ: ”Thầy còn nhiều điều phải nói với các con. Nhưng bây
giờ các con không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến Người sẽ dẫn các con
tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người
nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho các con biết những điều sẽ xảy đến. Người
sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho các con. Mọi sự
Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan
báo cho các con” (Ga 16,12-15).
Như thế, thời gian của Giáo Hội là thời gian
hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần sẽ thay Chúa Giêsu tiếp tục dạy
dỗ các Tông Đồ, ban cho các vị sự khôn ngoan, sức mạnh giúp loan báo, làm chứng và
sống theo Tin Mừng, soi sáng, nhắn nhủ và giúp các ông nhớ lại những gì Chúa Giêsu
đã nói với các ông.
Qua những gì trình bầy cho tới nay chúng ta nhận ra bối
cảnh đức tin trong lễ nghi xức dầu cho các bệnh nhân, trong đó nổi bật lời cầu nguyện:
cầu nguyện chúc tụng cũng như cầu nguyện nài xin ơn khỏi bệnh cho những anh chị em
đau yếu. Ở đây là trường hợp của tín hữu bị bệnh nhưng rất ý thức được tình trạng
yếu liệt của mình nên sai người đi mời các ”presbyteroi”, tức các ”trưởng lão” hay
các “linh mục”, các ”thừa tác viên của Chúa” có nhiệm vụ lo lắng, chăn dắt và hướng
dẫn cộng đoàn tín hữu được giao phó cho các vị. Như thế, mỗi khi các tín hữu bị bệnh
đều có thể sai người đi mời các linh mục tới xức dầu và cầu nguyện cho họ để họ được
lành bệnh.
Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân như vậy là bí tích có mục đích tái tạo
sức khỏe trên thân xác cũng như tinh thần. Nhưng từ từ tín hữu đánh mất đi ý nghĩa
đó và hiểu sai nó là bí tích dành cho người sắp chết. Vì thế thay vì mời các linh
mục ngay khi người thân mới bị đau yếu, thì người ta chờ cho tới khi bệnh nhân sắp
chết, không còn làm gì được nữa, mới đi mời linh mục. Và thế là bí tích Xức Dầu Bệnh
Nhân để chữa lành lại trở thành bí tích dọn mình và tiễn xưa người chết. Và người
ta lo âu buồn phiền, khi có người thân chết mà không nhận được bí tích xức dầu. Đôi
khi người bệnh đã chết rồi mà thân nhân cứ nài nẵng linh mục ban bí tích xức dầu cho
họ. Tất cả đều sai lạc với ý nghĩa và mục đích của bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.
Ngày nay nhiều cha xứ thường tổ chức lễ Xức Dầu cho các bệnh nhân và những người già
trong toàn giáo xứ mỗi năm vài lần, đặc biệt trước mùa hè và trước mùa đông, là hai
thời điểm thường có nhiều người già được Chúa gọi về Nhà Cha. Trong thánh lễ sau bài
giảng, có nghi thức ban bí tích Xức Dầu cho các bệnh nhân và người già.
Mục
đích là để tái lập ý nghĩa đích thật của bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, giúp tín hữu tìm
lại được sức khỏe, gây ý thức cho mọi người về bổn phận đối với các bệnh nhân và người
già cả, cũng như tránh cho nhiều người nỗi sợ hãi chết mà không được xức dầu.
Những ngày lễ như thế trở thành lễ toàn giáo xứ cầu nguyên cho các bệnh nhân và người
già cả, có sự hiện diện của các con cái và thân nhân bao quanh họ trong sự liên đới,
qúy trọng, lóng biết ơn và tình yêu thương.