Bà Véronique Perseguers - tuổi ngoài lục tuần - sống tại thành phố Marly bên
nước Thụy Sĩ từ hơn 30 năm qua, nhưng bà sinh ra và lớn lên tại thủ đô Paris của nước
Pháp. Sau khi thành hôn một năm, bà theo chồng - cũng người Pháp - rời thủ đô Paris
sang lập nghiệp tại Thụy Sĩ.
Bà có 3 con: tuổi 32, 30 và 26. Trong vòng hơn
23 năm bà dấn thân hoạt động giữa lòng Giáo Hội Công Giáo với tư cách nhân viên thiện
nguyện trong các lãnh vực như: giáo lý viên, thành viên hội đồng giáo xứ, hội đồng
mục vụ Marly, đại biểu nơi ủy ban mục vụ của giáo phận và của tiểu bang. Bà là một
phụ nữ Công Giáo ân cần niềm nở, nhiệt thành, nhanh nhẹn và hoạt động hữu hiệu. Xin
nhường lời cho bà nói về hồng phúc đặt trọn niềm tin yêu nơi THIÊN CHÚA.
Chuyến
ra đi cắt lìa với khu phố nơi tôi mở mắt chào đời và lớn lên với bao khuôn mặt thân
yêu đã ghi đậm một khúc quanh trong cuộc đời tôi. Cuộc bứng rễ từ Pháp sang Thụy Sĩ
thật đau thương. Không người quen biết. Vô cùng xa lạ. Trong một thời gian dài tôi
lặng lẽ bước đi trên các nẻo đường của thành phố Marly. Thế rồi tôi hiểu rằng chính
tôi phải đi đến với tha nhân. Hết năm này sang năm khác, những người nam nữ tôi gặp
trên đường dần dần đi vào cuộc đời tôi.
Nền tu đức của tôi đâm rễ sâu nơi
Lời Chúa phán trong Phúc Âm theo thánh Gioan: ”Thầy là Đường là Sự Thật là Sự Sống”(Gioan 14,6). Tôi chọn câu này khi Tuyên Xưng Đức Tin vào năm lên 11 tuổi.
Từ đó Lời Chúa không bao giờ rời xa tôi. Ảnh thánh luôn ở trong ví tôi giống như một
số Kitô hữu mang Thánh Giá nơi cổ.
Tôi sống Đức Tin như đi trên một con đường
có sỏi đá gập ghềnh của các thử thách, các lo âu về sức khoẻ, hoặc như đi trên con
đường có niềm vui có hoa tươi, có hòa điệu và an bình .. Dầu đi trên đường nào, tôi
vẫn tìm kiếm mối hòa điệu, tình yêu thương và niềm an bình. Tôi xác tín rằng THIÊN
CHÚA đặt trên đường tôi đi những người tôi cần đến để hướng dẫn và giúp tôi tăng trưởng
trong Đức Tin. Tôi cảm thấy mình được tháp tùng. THIÊN CHÚA luôn luôn đi trước tôi
trên mọi nẻo đường đời tôi.
Đức Tin chỉ có ý nghĩa nếu tôi sống Đức Tin trong
cuộc đời hôn nhân, bên cạnh hiền phu, trong việc giáo dục con cái và giữa lòng mái
ấm gia đình. Tôi kín múc sức mạnh trong bầu khí yên tĩnh nơi căn nhà tôi sống. Mỗi
buổi sáng, sau khi hoàn tất các công việc nội trợ, tôi dành thời giờ ngồi xuống và
mở sách Kinh Thánh ra. Cứ mỗi lần như thế tôi đều tìm thấy một câu Lời Chúa sinh ích
lợi cho tâm hồn tôi. Rồi tôi dành thời giờ để cầu nguyện. Tôi phó thác cho Chúa gia
đình thân yêu cùng bạn hữu. Tôi xin Chúa ban sức mạnh để có thể vượt qua một vài thử
thách và xin Chúa ban ơn để có thể yêu mến nhiều hơn những người mà tôi ít quan tâm.
Gia đình mà chúng tôi xây dựng với hiền phu tôi rất quan trọng. Con cái là suối nguồn
niềm vui và hạnh phúc của chúng tôi. Chúng đã rời tổ ấm ra ở riêng nhưng cánh cửa
luôn rộng mở và chúng biết rõ chúng tôi đang ở đây. Khi nào muốn hoặc lúc nào cần,
chúng vẫn có thể trở về nhà để gặp gỡ Cha Mẹ chúng.
Tôi cũng sống Đức Tin
trong các dấn thân hoạt động tông đồ giữa lòng Giáo Hội Công Giáo. Với tư cách giáo
lý viên, tôi thường lấy mẫu gương của chứng nhân. Chứng nhân của Đức CHÚA GIÊSU KITÔ
có nghĩa là gì? Khi nói về việc làm chứng cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ tôi nghĩ đến
”vật chứng” là chiếc gậy được chuyền từ tay này sang tay kia trong cuộc thi đua
tiếp sức. Cái ”vật chứng” này chúng ta tiếp nhận nó rồi đưa nó đi xa hơn mãi. Từ thời
Đức Chúa GIÊSU KITÔ, nhiều người khác đã chuyển đạt cho chúng ta ”chứng tá” để lưu
truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ kia. Làm chứng nhân cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ chính
là tiến bước luôn mãi, không bao giờ dừng lại yên vị nơi những gì chúng ta biết.
Cũng giống như Tình Yêu của Đức KITÔ, nền tu đức của tôi không thuộc về tôi nhưng
phải được lưu thông, đi xa hơn mãi và phải mang lại hoa trái, nếu không, nó không
thể tăng trưởng. Đức Tin của tôi thật vui tươi. Là Kitô-hữu chúng ta thật may mắn
vì được biết Đức Chúa GIÊSU KITÔ và thông truyền sứ điệp Tình Yêu của Người. Người
ta đã chẳng nói với chúng ta rằng: ”Hãy ra đi trong niềm vui và
an bình của Đức KITÔ" đó sao? Tôi tin rằng một
nụ cười có thể nói lên nhiều điều, ngay cả khi tôi đang đau đớn trong thể xác.
Tôi luôn luôn ghi ơn bà giáo dạy giáo lý lúc tôi còn nhỏ tuổi. Chính bà làm cho tôi
biết Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Vì thế khi người ta xin tôi trở thành giáo lý viên, tôi
tức khắc nhận lời, mặc dầu lúc ấy 3 đứa con của tôi còn nhỏ tuổi. Tôi thường ngỡ ngàng
thán phục trước một đứa trẻ sắp rước lễ lần đầu. Tôi bị đánh động khi nhận thấy một
đứa trẻ nghịch ngợm trong giờ học giáo lý bỗng trở thành một thiên thần ngoan hiền
vào ngày rước lễ lần đầu, y như thể ơn thánh Chúa tràn ngập tâm hồn nó. Các thiếu
niên trong nghi thức tuyên xưng Đức Tin và lãnh bí tích Thêm Sức cũng làm tôi xúc
động. Chúng ta không có quyền xét đoán Đức Tin của một trẻ vị thành niên. Chúa Thánh
Linh luôn luôn hoạt động.
Tôi rất thích viếng thăm các cộng đoàn dòng tu và
khám phá cuộc sống của các tu sĩ. Tôi có cảm tưởng như đến gần THIÊN CHÚA. Dưới mắt
tôi, các tu sĩ đã tìm thấy Chân Lý.
Chính Thánh Thể nuôi sống tôi. Tôi thường
tự nhủ mỗi khi đi tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật: ”Tôi sắp nuôi dưỡng linh hồn tôi!”
Cứ mỗi lần vị Linh Mục đọc Lời Truyền Phép, tôi đều cảm nhận cùng một xúc động y như
ngày tôi rước lễ lần đầu. Lúc vị Linh Mục giơ cao Mình Máu Thánh Chúa cho giáo dân
thờ lạy cũng là giây phút vô cùng thánh thiêng đối với tôi. Tôi cảm tạ THIÊN CHÚA
về mầu nhiệm Thánh Thể. Tôi cảm nhận niềm hiệp thông trọn vẹn với thế giới, với kẻ
còn sống cũng như với người qua đời. Mối hiệp thông của các thánh mang trọn ý nghĩa.
Tôi rất thích kính viếng các nhà nguyện, các thánh đường, các nơi hành hương, vì đây
là các nơi chốn phúc lành để lại các chứng tá của Tình Yêu THIÊN CHÚA.
... ”Lạy Chúa, tình thương Ngài cao ngất trời xanh, lòng thành tín vượt
ngàn mây biếc. Công lý của Ngài như đỉnh núi Thái Sơn, quyết định của
Ngài tựa vực sâu thăm thẳm. Lạy Chúa, Ngài tế độ con người và súc vật. Lạy THIÊN CHÚA,
tình thương Ngài quý trọng biết bao! Phàm nhân tìm bóng Ngài
trú ẩn. Họ được no say yến tiệc nhà Ngài, nơi suối hoan lạc, Ngài cho uống
thỏa thuê. Ngài quả là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn
thấy ánh sáng. Xin hằng thương những kẻ biết Ngài, và hằng xử công minh với
những ai có lòng ngay thẳng”(Thánh Vịnh 36(35),6-10).
(”Évangile et Mission” bimensuel officiel de l'Église Catholique des diocèses de Lausanne,
Genève et Fribourg . Bâle . Abbaye de Saint-Maurice, 18 . 7 Novembre 2012, trang 824-827)