CHÂN PHÚC ANRÊ PHÚ YÊN: HÃY LẤY TÌNH YÊU ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH YÊU
Chúa Nhật 5-3-2000 trong khung cảnh Đại Năm Thánh 2000, Đức Chân Phúc Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Thầy Giảng Anrê Phú Yên lên hàng Á Thánh.
Trong tập sách nhỏ về nghi thức tôn phong chân phước được phân phát dịp này có phần
Việt ngữ sơ lược tiểu sử vị Tôi Tớ Chúa tử vì đạo như sau.
THẦY GIẢNG ANRÊ,
VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM
Thầy Giảng Anrê, gốc
tỉnh RanRan (Phú Yên), là con út của một phụ nữ tên thánh là Gioanna.
Tuy góa bụa nhưng bà đã giáo dục con cái với tất cả lòng tận tụy và khôn ngoan. Anrê
là một cậu bé mảnh khảnh, nhưng tư chất rất thông minh, có óc phán đoán tốt và tâm
hồn hướng chiều về sự thiện. Do lời năn nỉ của bà mẹ, cha Đắc Lộ, vị Linh Mục thừa
sai dòng Tên nổi tiếng, đã nhận cậu Anrê vào số các môn sinh của ngài. Anrê chăm chỉ
học chữ Nho và chẳng bao lâu trổi vượt các bạn đồng môn.
Anrê được lãnh nhận
bí tích Rửa Tội cùng với mẹ ba năm trước khi bà qua đời, tức là năm 1641, khi Anrê
được 15 tuổi. Anrê sinh năm 1625 hay 1626, không rõ ngày tháng, và lúc chịu chết năm
1644, Thầy trạc độ 19 hay 20 tuổi.
Một năm sau khi chịu phếp Rửa Tội, tức
năm 1642, Anrê được cha Đắc Lộ nhận vào nhóm cộng sự viên thân tín của ngài, và sau
một năm huấn luyện thêm về tôn giáo và văn hóa, Anrê được gia nhập Hội Thầy Giảng
gọi là ”Nhà Đức Chúa Trời” mà Cha Đắc Lộ đã khôn ngoan thành lập: các thành viên Nhà
Đức Chúa Trời cam kết, bằng lời hứa chính thức và công khai, suốt đời phụng sự Giáo
Hội trong việc giúp các linh mục và truyền bá Tin Mừng.
Lòng hăng say của
Thầy Anrê sống trọn điều quyết tâm khi chịu phép Rửa đã chuẩn bị cho Thầy can đảm
đương đầu với cuộc tử đạo và ngoan ngoãn đón nhận ơn tử đạo Thiên Chúa rộng ban cho
Thầy.
Trước cuối tháng 7 năm 1644, quan Nghè Bộ trở lại tỉnh nơi Thầy Giảng
Anrê sinh sống. Quan mang theo sắc lệnh của chúa Nguyễn cấm truyền bá Đạo Kitô trong
nước: vì thế quan quyết định hành động trước tiên chống lại các thầy giảng.
Cha Đắc Lộ không hề hay biết ý định này của quan, nên tới thăm quan vì xã giao, nhưng
ngay sau đó cha được biết chúa Nguyễn rất giận dữ khi thấy vì cha mà có đông người
dân bản xứ theo Đạo Kitô. Vì thế cha phải bỏ xứ Đàng Trong để trở về Macao và không
được phép dạy giáo lý cho dân nữa. Còn các tín hữu theo đạo thì bị trừng phạt rất
nặng nề.
Rời dinh quan Nghè Bộ, cha Đắc Lộ đi thẳng xuống nhà tù nơi giam
giữ một Ông Trùm, cũng tên Anrê, đã 73 tuổi, mới bị bắt hai ngày trước đó. Trong khi
ấy, quan ra lệnh cho lính tới nhà cha lùng bắt một thầy giảng khác tên là Ignatio.
Nhưng thầy Ignatio đã đi làm việc tông đồ. Lính chỉ tìm thấy Thầy Giảng Anrê. Để khỏi
trở về dinh quan Bộ tay không, lính đánh đập Thầy Anrê, trói Thầy lại, rồi giải xuống
thuyền đem về dinh quan trấn thủ. Chiều ngày 25 tháng 7 năm 1644, Thầy được dẫn tới
trước mặt quan. Lính thưa với quan rằng họ không tìm thấy thầy Ignatio, nhưng đã bắt
được một ”thầy giảng khác giống như vậy, vì suốt cuộc hành trình, anh ta luôn nói
về Đạo Kitô và khuyến khích họ theo Đạo”.
Nghe vậy quan tìm mọi cách làm cho
Thầy Anrê ”từ bỏ cái đạo điên rồ đó và bỏ lòng tin”.
”Nhưng thanh niên
can trường ấy trả lời quan rằng mình là Kitô hữu, và rất sẵn sàng chịu
mọi khổ hình chứ không từ bỏ Đạo mình tuyên xưng:
vậy xin quan cứ tùy ý chuẩn bị các hình cụ, chàng vui lòng đón
nhận, với xác tín rằng, vì đức tin, càng chịu khổ đau
chừng nào thì càng chết vinh quang chừng ấy”.
Tức giận
vì sự bất khuất của Thầy Anrê không hề sợ hãi trước những lời đe dọa, quan truyền
đóng gông và giải Thầy vào ngục, cùng nơi giam giữ Ông Trùm Anrê.
Cha Đắc
Lộ và một vài thương gia Bồ Đào Nha tới thăm hai thầy: Thầy Giảng Anrê thanh thản
và vui mừng vì được chịu khổ đau vì Chúa Kitô đến độ những người đến thăm Thầy bịn
rịn không rời Thầy được, và nước mắt tràn bờ mi, họ xin Thầy nhớ đến họ trong lời
cầu nguyện. Thấy vậy, Thầy tự nhạo cười mình và xin họ cầu nguyện cho Thầy, để Chúa
ban cho Thầy ơn trung thành với Chúa cho đến chết, ”dâng hiến mạng sống trong tình
yêu trọn vẹn, hầu đáp trả tình yêu thương vô biên của Chúa, Đấng
đã hiến mạng sống vì loài người .. Những lời Thầy luôn lập lại cho đến
khi trút hơi thở cuối cùng là: Chúng ta hãy lấy tình yêu để đáp
lại Tình Yêu của Chúa chúng ta, hãy lấy mạng sống đáp lại mạng sống”.
Sáng hôm sau, 26 tháng 7 năm 1644, hai tín hữu Kitô cùng tên Anrê, Ông Trùm
Anrê 73 tuổi và Thầy Giảng Anrê, cổ mang gông, bị dẫn qua các đường phố đông người
qua lại nhất trong thành, băng qua chợ Kẻ Chàm, đến dinh quan trấn thủ để bị tra hỏi
công khai. Quan trấn triệu tập một vài quan khác, lôi kéo họ về phía mình và tuyên
án tử cho Thầy Giảng Anrê, rồi ra lệnh dẫn Thầy về ngục thất. Còn Ông Trùm Anrê thì
được tha vì lý do tuổi tác, nhờ lời xin của cha Đắc Lộ và các thương gia Bồ Đào Nha.
Vào khoảng 5 giờ chiều, một viên chỉ huy cùng với 30 người lính vào nhà tù, nơi vị
Tôi Tớ Chúa bị giam giữ, và ra lệnh cho Thầy phải đi theo tới nơi hành quyết. Thầy
Anrê cảm tạ Chúa vì giờ hiến tế đã tới, và sau khi chào mọi người hiện diện trong
tù, Thầy nhanh nhẹn bước đi. Quân lính vây chặt chung quanh và dẫn Thầy Anrê đi qua
các đường phố ở Kẻ Chàm, tới một cánh đồng ngoài thành. Cha Đắc Lộ, nhiều Kitô hữu
Bồ Đào Nha và Việt Nam cũng như nhiều người lương đã đi theo và chứng kiến cuộc xử
tử vị Tôi Tớ Chúa.
Theo thói quen tại đây, cha Đắc Lộ xin và được phép trải
một tấm chiếu dưới người Thầy Anrê để hứng lấy máu Thầy, nhưng Thầy không muốn nhận
điều ấy. Thầy muốn máu mình rơi xuống đất, như trường hợp Máu Cực Trọng Chúa Kitô
đã đổ ra. Trong khi đó, Thầy Anrê nhắn nhủ các Kitô hữu hiện diện hãy luôn kiên vững
trong Đức Tin, đừng buồn phiền vì cái chết của Thầy, và hãy giúp lời cầu cho Thầy
được trung thành tới cùng.
Cuộc hành quyết Thầy Giảng Anrê được thi hành bằng
mấy nhát lao đâm thấu cạnh sườn bên trái, và sau cùng khi một người lính sắp dùng
đao chém đầu, Thầy lớn tiếng kêu lên ”GIÊSU”.
Cho tới hơi thở cuối
cùng, Thầy Giảng Anrê đã chứng tỏ lòng kiên trung trong việc chấp nhận dâng
hiến tế cuộc sống vì lòng tin yêu Chúa Kitô.
... Đây là điều răn
của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người
đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh
em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là
tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc của chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là
bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi CHA Thầy, Thầy đã
cho anh em biết(Gioan 15,13-15).
(BEATIFICAZIONE,
Piazza San Pietro, 5 Marzo 2000, Ufficio delle Celebrazioni Liturgiche del Sommo Pontefice,
trang 83-86)