Phải can đảm và khiêm nhường trước các tín điều bất khoan nhượng của chủ thuyết bất
khả ngộ
Các Giám Mục phải là những người quan tâm hướng về Thiên Chúa để có thể quan tâm tới
con người. Phải phải can đảm và khiêm nhường trước các tín điều bất khoan nhượng của
chủ thuyết bất khả ngộ thống trị thế giới ngày nay.
Đức Thánh Cha Biển Đức
XVI đã khích lệ các tân Giám Mục như trên trong bải giảng thánh lễ truyền chức cử
hành tại đền thờ thánh Phêrô trong khung cảnh lễ Hiển Linh 6-1-2013.
Bốn
Tân Tổng Giám Mục được truyền chức là Đức Cha Georg Ganswein, 56 tuổi, Bí thư riêng
của Đức Thánh Cha, được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng. Trong
chức vụ mới Đức Cha sẽ đặc trách về các buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha và chuẩn
bị các chuyến viếng thăm của ngài ở Italia. Ba vị Tổng Giám Mục còn lại là Đức Cha
Vincenzo Zani, người Italia, Tổng thư ký Bộ giáo dục công giáo, Đức Cha Fortunatus
Nwachukwu, người Nigeria, tân Sứ Thần Tòa thánh tại Nicaragua, và Đức Cha Nicolas
Thévénin, người Pháp, Sứ Thần Tòa Thánh.
Hai vị phụ phong trong buổi lễ là
Đức Hồng Y Tarcicsio Bertone, Quốc vụ Khanh Tòa thánh và Đức Hồng Y Zenon Grocholewski,
Tổng trưởng Bộ giáo dục công giáo.
Tham dự thánh lễ có gần 100 vị gồm các
Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cùng với các linh mục, tu sĩ nam nữ, thân nhân
bạn bè của các tiến chức, ngoại giao đoàn canh Tòa Thánh và 10.000 tín hữu và du khách
hành hương.
Sau Phúc Âm Phó tế đã hát lời loan báo Phục Sinh. Tiếp đến cộng
đoàn đã hát kinh Cầu Xin Chúa Thánh Thần, rồi Đức Hồng Y Marc Ouellet, người Canada,
Tổng trưởng Bộ Giám Muc giới thiệu các tiến chức với Đức Thánh Cha.
Trong
bài giảng Đức Thánh Cha đã nói về ý nghĩa của biến cố Hiển Linh và mời gọi các tiến
chức noi gương ba nhà Đạo sĩ phương đông. Hiển Linh là sự biểu lộ lòng lành và tình
yêu của Thiên Chúa đối với con người. Dưới sự hướng dẫn của ngôi sao các Đạo sĩ đã
tìm ra con đường tới Bếtlêhem; nhưng đối với Giáo Hội đó chỉ là bước khởi đầu của
một cuộc rước vĩ đại dọc dài lịch sử. Các Đạo sĩ đến từ Phương Đông đại diện cho thế
giới các dân tộc, Giáo Hội của các người không do thái, qua các thế kỷ tiến bước về
với Con Trẻ ở Bếtlêhem, phủ phục và thờ lậy Con Thiên Chúa. Thật ra ngay từ đầu lịch
sử Giáo Hội, con người đến từ mọi nơi thuộc mọi lục địa, mọi nền văn hóa và các kiểu
suy nghĩ và cách sống khác nhau đã và đang tiến bước về với Chúa Kitô.
Các
Đạo sĩ là những người bị thúc đẩy bởi sự âu lo kiếm tìm Thiên Chúa và ơn cứu rỗi của
thế giới, nên không hài lòng với địa vị và của cải họ có, mà muốn biết làm sao để
là người, và biết sự thật về chính con người, về Thiên Chúa và thế giới. Họ là những
người kiếm tìm Thiên Chúa.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã khuyến khích các tân
chức noi gương ba nhà Đạo sĩ phương đông và định nghĩa Giám Muc như sau:
Nhất
là vị Giám Mục phải là người quan tâm hướng về Thiên Chúa, bởi vì chỉ như thế Giám
Mục mới thực sự quan tâm tới con người. Chúng ta cũng có thể nói ngược lại: một Giám
Mục phải là một người có con tim chú ý tới con người, bị đánh động bởi các chuyện
của con người. Giám Mục phải là một người sống cho người khác. Nhưng ngài chỉ thực
sự được như vậy, nếu là một người bị Thiên Chúa chinh phục. Nếu đối với ngài, sự lo
lắng đối với Thiên Chúa trở thành một sự lo lắng đối với con người là thụ tạo của
Chúa. Giám Mục phải là người đi trước và chỉ đường cho con người tiến tới đức tin,
đức cậy và đức mến. Như là người hành hương của Thiên Chúa Giám Mục phải là con người
cầu nguyện và sống trong sự tiếp xúc nội tâm liên lỉ với Thiên Chúa.
Giám
Mục là người được mời gọi có can đảm và sự khiêm tốn của đức tin như các nhà Đạo sĩ,
chắc hẳn đã bị nhạo cười vì được hướng dẫn bởi một ngôi sao họ du hành về nơi vô định.
Xem ra họ đáng nực cười, nhưng bởi vì các vị đã được Thiên Chúa đánh động trong nội
tâm, nên đối với họ việc tìm kiếm chân lý quan trọng hơn sự chế nhạo của thế giới,
bề ngoài xem ra thông minh. Cũng thế vị Giám Mục ngày nay sẽ thường xung khắc với
sự thông minh thống trị của những người bám víu vào cái xem ra chắc chắn. Ai sống
và loan báo đức tin của Giáo Hội, trong nhiều điểm không phù hợp với các ý kiến thống
trị của thời đại chúng ta ngày nay. Và Đức Thánh Cha giải thích lý do các xung khắc
đó như sau: Chủ thuyết bất khả ngộ đang thống trị rộng rãi ngày nay có các tín
điều của nó, và nó rất bất khoan nhượng đối với tất cả những gì đặt nó trong vấn nạn
và cật vấn các tiêu chuẩn của nó. Vì thế can đảm chống lại các hướng dẫn thống trị
là điều đặc biệt cấp bách đối với một Giám Mục này nay. Do đó Giám Mục phải là người
can đảm. Sự can đảm ấy không hệ tại việc đánh trả với bạo lực, trong tính hiếu chiến,
nhưng là để cho mình bị đánh và đương đầu với các tiêu chuẩn của các ý kiến thống
trị. Can đảm ở lại một cách vững vàng với chân lý là điều được đòi hỏi nơi nhưng người
Chúa gửi đi như chiên con giữa sói. Ai kính sự Chúa, thì khộng sợ hãi gì hết” sách
Huấn Ca nói vậy (Hc 34,16). Lòng kính sợ Chúa giải thoát khỏi sự sợ hãi loài người.
Nó khiến được tự do”.
Cũng như đã xảy ra cho các Tông Đồ, cũng thế các Giám
Mục là những người kế vị các Tông Đồ phải chờ đợi bị đánh đập nhiều lần, một cách
tân tiến, nếu không ngừng loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô một cách dễ nghe và
dễ hiểu. Dĩ nhiên, các Giám Mục không được mời gọi khiệu khích, trái lại phải kêu
mời mọi người bước vào trong niềm vui của chân lý, bằng cách chỉ đường như các ngôi
sao lóng lánh trên bầu trời lich sử. Sự ưng thuận của các ý kiến thống trị không phải
là tiêu chuẩn phải vâng phục. Tiêu chuẩn là chính Chúa. Nếu chúng ta bảo vệ lý lẽ
của Chúa, thì nhờ Người, chúng ta sẽ luôn luôn chinh phục được các người mới cho con
đường Tin Mừng. Nhưng một cách không thể tránh né được, chúng ta sẽ bị đánh bởi những
người sống trái nghịch với Tin Mừng, và khi đó chúng ta sẽ biết ơn vì được coi là
xứng đáng thông phần vào cuộc Khổ Nạn của Chủa Kitô.
Sau khi các tiến chức
đã thề hứa trung thành với các nhiệm vụ Giám Mục của mình cho tới chết, cộng đoàn
đã hát kinh cầu các Thánh xin các vị bầu cử cho các tiến chức nằm phủ phục trước bàn
thờ. Tiếp đến hai vị phụ phong, các Hồng Y và các Tổng Giám Mục đặt tay trên đầu các
tiến chức. Các Phó tế cầm sách Phúc Âm mở trền đầu các tiến chức, trong khi Đức Thánh
Cha đọc công thức truyền chức. Rồi từng vị tiến lên để được Đức Thánh Cha xức dầu
thánh hiến, trao sách Phúc Âm, đeo nhẫn, nhận mũ và gậy Giám Mục. Sau đó càc Tân Tổng
Giám Mục trao hôn bình an với Đức Thánh Cha, các Hồng Y, và các Tổng Giám Mục, và
nhận lời chúc mừng của các vị.
Vì thánh lễ kéo dài nên Đức Thánh Cha đã đọc
Kinh Truyền Tin trễ 15 phút. Ngài đã xin lỗi mọi người vị sự chậm trễ này. Đức Thánh
Cha đã gửi lời cầu chúc bình an, và đặc biệt chúc mừng các Giáo Hội Đông Phương mừng
lễ Giáng Sinh ngày mùng 7 tháng Giêng theo lịch Giuliano. Ngài cũng nhắc tới Ngày
Thánh Nhi cử hành tại Italia hôm qua và cám ơn các thiếu nhi đã dấn thân loan báo
Tin Mừng và trợ giúp các trẻ em nghèo. Đức Thánh Cha xin các em đem tình yêu Chúa
đến cho mọi người. Ngài cũng đặc biệt chào mừng hiệp hội Các Gia đinh Tự Do Âu châu
tổ chức cuộc diễn hành lịch sử dân ca vũ, năm nay theo các truyến thống của vùng Arezzo
trung Italia. Hàng chục đoàn người mặc các sắc phục địa phương với cờ quạt hộ tống
ba vua cỡi ngựa, đã bắt đau diễn hành lúc 10 giờ trên đại lộ Hòa Giải đế tiến về quảng
trường thánh Phêrô tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha.
Trong
bài huấn dụ ngắn Đức Thánh Cha nói tuy có hơi khác nhau nhưng lễ Hiển Linh mà Giáo
Hội Latinh Roma mừng hôm qua, và lễ Giáng Sinh mà các Giáo Hội Đônb phương mừng ngày
mùng 7 tháng Giếng, đều nêu bật rằng Hài Nhi sinh trong hang đá Bếtlehem là ánh sáng
thế gian, dẫn lối cho mọi dân tộc. Trên bình diện đức tin thì một đàng trong lễ Giáng
Sinh chúng ta thấy ở trước Đức Giêsu có đức tin của Mẹ Maria, của thánh Giuse và các
mục đồng. Hôm nay trong lể Hiển Linh có đức tin của các Đạo sĩ đến từ Phương Đông
để thờ lậy vua Do thái. Ngài nói:
Đức Trinh Nữ Maria cùng với chồng mình
diễn tả ”nhánh” của Israel, ”số sót” đã đươc các tiên tri loan báo, từ đó Đấng Cứu
Thế xuất thân. Trái lại các Đạo sĩ diễn tả các dân tộc, và chúng ta cũng có thể nói
các nền văn hóa, và các tôn giáo đang tiến bước về với Thiên Chúa, trong sự kiếm
tìm vương quốc hòa bình, công bằng, chân lý và tự do của Người. Nhân tố đức tin của
dân Israel là dân đã nhận biết và tin nơi Thiên Chúa, Đấng đã tự mạc khải cho các
Tổ Phụ và trong con đường lịch sử, đã được biểu hiện nơi Đức Maria, ”Con gái Sion”.
Vào thời viên mãn đức tin ấy đã thành toàn nơi Mẹ là ”người có phúc vì đã tin”; và
nơi Mẹ Ngôi Lời đã nhập thể, Thiên Chúa đã xuất hiện” trong thế giới. Đức tin của
Mẹ trở thành mẫu gương đức tin của Giáo Hội, Dân của Giáo Ước mới, một dân đại đồng
ngay từ đầu. Nó có thể được để bên cạnh đức tin của tổ phụ Abraham: nó là sự khởi
đầu của cùng một lời hứa của cùng một chương trình bất biến của Thiên Chúa, giờ đây
được thành toàn nơi Đức Giêsu Kitô. Ánh sáng của Chúa Kitô trong sáng và mạnh mẽ khiến
cho có thể hiểu được ngôn ngữ của vũ trụ cũng như ngôn ngữ của Thánh Kinh, và như
thế tất cả những ai, như ba nhà Đạo sĩ, rộng mở cho chân lý có thể nhận biết nó và
đạt tới việc chiêm ngưỡng Đấng Cứu Độ thế giới.
Sau đó Đức Thánh Cha đã đọc
kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.