Lộ Đức Kinh thành của Bí tích Thánh Thể và Kinh Mân Côi
Là nơi Đức Mẹ chọn để vén mở cho chúng ta biết Mẹ là ”Đấng vô nhiễm nguyên tội”, Lộ
Đức trở thành kinh thành của Thánh Thể và Kinh Mân Côi và là nơi tín hữu nhận được
rất nhiều ơn thánh Chúa: ơn phần xác và nhất là ơn phần hồn. Kể từ khi Đức Mẹ hiện
ra với chị Bernadette Soubirous năm 1858 đến nay đã có 200 triệu tín hữu và du khách
hành hương đến Lộ Đức và ít nhiều gì cũng đã nhận được ơn lành Thiên Chúa ban qua
lời bầu cử của Mẹ.
Trong nhiều thập niên qua đã có các chuyến hành hương quy
mô cho nhiều thành phần khác nhau như: các bệnh nhân, các người tàn tật, trước đây
đã ít được tiếp đón. Từ năm 1946 người ta đã tổ chức các cuộc hành hương cho các người
mù và các bệnh nhân tâm thần. Các anh chị em này cầu nguyện và tham dự các lễ nghi
phụng vụ thích hợp với điều kiện của họ.
Trong chuyến hành hương cho các bệnh
nhân tâm thần dịp lễ Phục Sinh năm 1971 có một người Canada, bị vào nhà thương tâm
thần từ khi còn bé. Sau 50 năm ông có dịp khám phá ra thế giới tuyệt vời và lời cầu
nguyện. Năm 1963 một bác sĩ tỉnh Nancy đã phát động cuộc hành hương Lộ Đức cho các
bệnh nhân bị bệnh teo cơ bắp vì vi-rút tấn công các trung tâm điều khiển cử động của
tủy sống, và khiến cho mọi bệnh nhân có thể tham dự, kể cả những người đang dưỡng
bệnh trong các phổi sắt. Việc chuyển vận từ nhà thương cho tới xe lửa, rồi từ xe lửa
vào trong nhà thương ở Lộ Đức đã đòi hỏi các kỹ thuật chuyên môn chưa từng có. Nhưng
chuyến hành hương đã là một kinh nghiệm tích cực đối với các bệnh nhân, cũng như các
bác sĩ và nhân viên y tế tháp tùng, trên cả bình diện vật chất. Giá trị tinh thần
của nó đẹp và mạnh mẽ đến độ nó trở thành cuộc hành hương quốc tế được lập lại sau
đó vào các năm 1968, 1973, 1978 và 1983.
Các chuyến hành hương Lộ Đức cho
các bệnh nhân có một ý nghĩa xã hội và tinh thần rất lớn. Chúng tháp nhập các anh
chị em bệnh nhân vào mầu nhiệm cuộc sống kitô, nơi họ là các phần tử có một chỗ đứng
đặc tuyển dưới bóng thập giá Chúa Kitô. Song song chúng trả lại cho họ các tương quan
xã hội, tình bạn và sự liên đới giữa các bệnh nhân và các người lành mạnh; và các
tương quan ấy thường kéo dài sau chuyến hành hương.
Lộ Đức cũng mở rộng vòng
tay tiếp đón các anh chị em bị chính quyền hay xã hội coi là cặn bã và bị gạt bỏ ngoài
lề. Tin Mừng yêu thương được loan báo cho họ là những người nghèo nàn nhất, vì bị
tưởc đoạt phẩm giá là người và là con cái Chúa. Đó là các cuộc hành hương của các
anh chị em du mục, những người sống lang thang, nay đây mai đó trên các caravane.
Thường khi các cuộc hành hương cho người du mục hay cho các người tàn tật khiến cho
công quyền và những người giầu ở trong tình trạng báo động, vì sợ họ ăn trộm ăn cắp
hay gây xáo trộn, và các người tổ chức cũng thường phải bảo vệ họ chống lại các thành
kiến và sự sợ hãi. Người ta còn nhớ trong cuộc hành hương đầu tiên tổ chức cho 4.000
người bệnh tâm thần, trong đó có 400 người đến trực tiếp từ các nhà thương tâm trí,
nhiều hàng quán tại Lộ đức đã đóng cửa vì sợ các khách hành hương này quấy phá; nhưng
thật ra đã không có chuyện gì xảy ra.
Sau cùng còn có các cuộc hành hương
quốc tế của các quân nhân, bắt đầu năm 1958, bao gồm binh sĩ của mọi binh chủng đến
từ nhiều nước khác nhau, mà ít năm trước đó còn chĩa súng vào nhau. Năm 1982 với sự
đồng ý của hàng giáo phẩm đã có hai cuộc hành hương cho các binh sĩ Anh giáo. Và tại
Lộ Đức cũng có một nhà nguyện nơi các tín hữu không công giáo có thể cử hành các lễ
nghi phụng vụ của họ. Hồi năm 1976 đã có một nữ mục sư người Đan Mạch xin phép cử
hành phụng vụ tại đây, và bà đã được phép của các vị hữu trách Đền Thánh Lộ Đức. Đôi
khi giới truyền thông cũng đưa tin về sự hiện diện của các nhóm tín hữu Hồi giáo.
Vào tháng 10 năm 1975 cũng có một nhóm tín hữu Phật giáo tới viếng thăm Lộ Đức.
Chương trình ”cửa rộng mở” trợ giúp cuộc đối thoại với tín hữu các tôn giáo khác,
và sẵn sàng tiếp đón tín hữu của mọi tôn giáo đến viếng thăm Lộ Đức. Tất cả những
điều này là kết qủa của lời cầu nguyện và tình bác ái, là hai nét nổi bật của Lộ Đức.
Lộ Đức là kinh thành của Đức Mẹ Vô Nhiễm, nơi tín hữu tỏ lòng sùng mộ đối với Mẹ Thiên
Chúa, nhưng nhất là nơi tín hữu lắng nghe điều Mẹ đã nói với các gia nhân của đôi
tân hôn trong tiệc cưới tại làng Cana xưa kia: ”Người bảo gì các anh cứ làm như vậy”.
Với hàng triệu tín hữu đến hành hương Lộ Đức ngày nay Đức Mẹ Vô Nhiễm cũng lập lại
lời nhắn nhủ ấy: ”Các con hãy làm tất cả những gì Chúa Giêsu truyền cho các con”.
Nghĩa là tất cả đều phải quy chiếu về Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Ngày 12 tháng 3 năm
1858 Đức Mẹ nói với chị Bernadette xin các linh mục xây một nhà nguyện và đi rước
kiệu đến đó. Nhưng đã cần phải có nhiều nhà thờ để tiếp đón tín hữu hành hương. Và
bí tích Thánh Thể luôn luôn là trọng tâm của mọi cuộc hành hương Lộ Đức. Tín hữu tham
dự các thánh lễ cử hành tại Hang Đá nơi Đức Mẹ đã hiện ra, hay trong các vương cung
thánh đường và nhiều khi ngay cả giữa cánh đồng cỏ đối diện với Hang Đá bên kia bờ
sông Gave nữa.
Trong số các tín hữu hành hương Lộ Đức giới trẻ có không gian
rộng rãi và một trại tiếp đón với các nhân viên trẻ linh hoạt cuộc hành hương của
họ. Hàng năm có 300.000 người trẻ hành hương Lộ Đức, trong đó có 120.000 đi theo các
đoàn hành hương, số còn lại đi riêng rẽ. Số người trè hàng năm đến Lộ Đức cũng tương
tự như số người trẻ tìm đến cộng đoàn đại kết Taizé bên Pháp để sống kinh nghiệm cầu
nguyện, sự hiệp nhất và tình huynh đệ đại đồng.
Ban giám đốc Đền Thánh Đức
Mẹ Lộ Đức dành cho giới trẻ một khu vực cắm trại rộng 16 mẫu tây, nơi họ thể sinh
hoạt thoải mái ngoài trời. Liên quan tới sự hiện diện của người trẻ tại Lộ Đức, cần
ghi nhận việc giới trẻ tham gia việc phục vụ các bệnh nhân với khoảng 30%, và khi
đó là các đoàn hành hương giáo phận thì sự tham gia của người trẻ phục vụ các bệnh
nhân lến tới 60%, nghĩa là có từ 20 tới 30 ngàn bạn trẻ. Có những người trẻ hy sinh
thời gian nghỉ hè đến Lộ Đức tình nguyện giúp đỡ các bệnh nhân trong nhiều năm liên
tiếp.
Con số tín hữu hành hương Lộ Đức gia tăng đã bắt buộc chính quyền địa
phương phát triển hệ thống giao thông, gia tăng các chuyến xe lửa và cải tiến đường
cho xe hơi, cũng như các tuyến đường hàng không. Một đường xe lửa quan trọng dài 2.000
cây số nối liền Lộ Đức với Paris, Bordeaux và Lyon. Sân bay Tarbes được nới rộng với
các phi đạo có thể tiếp đón các máy bay Boeing lớn. Ngoài ra cũng đã phải xây thêm
nhiều trung tâm rộng rãi đầy đủ tiện nghi để tổ chức các hội nghị, các lễ hội, các
buổi hòa nhạc, đại hội thánh nhạc, văn hóa và thể thao.
Từ sau Công Đồng Chung
Vaticăng II Hội Đồng Giám Mục Pháp chọn Lộ Đức làm nơi nhóm đại hội thường niên, cũng
như nơi tổ chức Đại Hội Thánh Thể quốc tế 1981. Đáng lý ra đã có sự tham dự của Đức
Gioan Phaolô II, nhưng vụ mưu sát ngày 13 thlang 5 năm 1981 đã khiến cho ngài không
thể có mặt. Bù lại Đức Gioan Phaolô II đã đến hành hương Lộ Đức ngày 15 tháng 8 năm
1983.
Sự hiện diện của Mẹ Maria Vô Nhiễm tại Lộ Đức rất là kín đáo. Bức tượng
Đức Mẹ tại Hang Đá được khánh thành ngày 4 tháng 4 năm 1864 liên tục nhắc nhớ sự hiện
diện của Mẹ. Tượng bằng cẩm thạch Carrara do ông Fabisch tạc theo lời tả của chị Bernadette,
nhưng đã không khiến cho chị hài lòng. Thay vì là một thiếu nữ tươi trẻ đơn sơ, thì
ông đã biến Đức Mẹ thành một Bà Lớn trong nghệ thuật điêu khắc cổ điển.
Ngay
chính giữa quảng trường có một tượng khác của Đức Mẹ đặt trên cột cao giữa vườn hoa.
Nhưng sự hiện diện của Mẹ còn được nhắc nhở bởi hai vương cung thánh đường chồng lên
nhau chính giữa là nhà thờ hầm, nơi có gắn các bảng khắc Kinh Kính Mừng bằng hàng
trăm thứ tiếng khác nhau, trong đó có tiếng Việt. Đây cũng là nơi đặt Mình Thánh Chúa
cho tín hữu chầu liên lỉ. Nhà thờ hầm là phần cổ nhất bắt đầu xây năm 1863 và hoàn
thành năm 1866, bên trên Hang Đá Massabielle.
Vương cung thánh đường Vô Nhiễm
Nguyên Tội tức nhà thờ bên trên, do kiến trúc sư Violet-le-Duc khởi công xây năm 1866
và hoàn thành năm 1871, dài 51 mét rộng 21 mét, có 600 chỗ ngồi, với tháp chuông cao
70 mét, bên trên có chiếc đồng hồ bằng đồng, điểm giờ với nhạc của kinh Kính Mừng.
Bên trong vương cung thánh đường có 12 bàn thờ cạnh được trang hoàng bằng các cờ của
các đoàn hành hương. Các kính mầu bên trên diễn tả các cảnh Cựu Ước cho tới việc định
nghĩa tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. 23 kính mầu bên dưới kể lại câu chuyện
Đức Mẹ hiện ra với chị Bernadette và cảnh đội triều thiên cho tượng Đức Mẹ, đặt cạnh
cung thánh năm 1876.
Vương cung thánh đường bên dưới, tức vương cung thánh
đường Đức Mẹ Mân Côi được xây giữa các năm 1874-1887. Trên cửa vào có tượng nổi Đức
Mẹ bồng Chúa Giêsu đang ban chuỗi Mân Côi cho thánh Đa Minh. Bên trong nhà thờ có
hình thánh giá Hy Lạp, với bốn cánh đều nhau mỗi cánh dài 50 mét, kiến trúc theo kiểu
roman bisantin. Nhà thờ có các bức khảm đá mầu rất đẹp diễn tả 15 mầu nhiệm kinh Mân
Côi và trong cung thánh là bức khảm đá mầu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội rất lớn. Bên
trên vương cung thánh đường là mái tròn có vương miện và thánh giá mạ vàng.
Năm 2007 mặt tiền vương cung thánh đường được trang hoàng thêm nhiều bức khảm đá mầu
diễn tả các biểu tượng bánh, dầu, rượu và nước và các bức khảm đá mầu kể lại một số
cảnh trong cuộc đời Chúa Giêsu.
Phía dưới bên trái là thánh Gioan Tẩy Giả,
Chúa Giêsu lãnh phép rửa; chính giữa tiệc cưới tại làng Cana, Chúa Giêsu với vết thương
cạnh sườn và Đức Mẹ. Bên phải cảnh Chúa hiển dung trên núi Tabor.
Phía bên
trên: loan báo Nước Trời và kêu mời hoán cải; Chúa Kitô phục sinh hiện ra với 10 Tông
Đồ; Ba Tông Đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan nhận Mình Thánh Chúa; các Tông Đồ với tay dấu
bên trong áo choàng, Giuđa cầm túi tiền; Chúa Giêsu chữa người bất toại.
Để
đáp ứng nhu cầu của các đoàn hành hương quốc tế năm 1958 Đức Cha Théas, Giám Mục Lộ
Đức đã cho xây thêm vương cung thánh đường Pio rộng mênh mông. Vương cung thánh đường
nằm bên dưới lòng đất có bàn thờ ở chính giữa có thể chứa được 20.000 người. Đây là
nơi cử hành thánh lễ quốc tế bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Hai bên có hai màn hình
lớn để tín hữu có thể theo dõi lễ nghi phụng vụ dễ dàng hơn.
Bên kia bở sông
Gave ở đầu cánh đồng cỏ đối diện với Hang Đá Đức Mẹ là nhà thờ kính thánh nữ Bernadette,
dài 100 mét rộng 80 mét, hình thao trường, có 5.000 chỗ ngồi, được khánh thành năm
1988. Hai bên nhà thờ có nhiều phòng họp. Bên trong nhà thờ có vách ngăn đôi để trong
trường hợp cần hai đoàn hành hương có thể cử hành các nghi thức phụng vụ trong cùng
một lúc. Bên cạnh nhà thờ thánh nữ Bernadette có một nhà nguyện nơi tín hữu có thể
chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày. Nhà nguyện này được khánh thành năm 1995.
Đối diện với Hang Đá bên kia sông Gave là đồng cỏ trống có thể chứa tới 200.000 người
trong các dịp đặc biệt như các thánh lễ do Đức Gioan Phaolô II cử hành trong hai lần
viếng thăm Lộ Đức năm 1983 và 2004.