Sinh hoạt Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13: 22-10-2012
VATICAN. Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 ”bước vào giai đoạn” thầm lặng nhất: suy tư,
soạn thảo để đưa ra những đề nghị cụ thể.
Trọn ngày 22-10-2012, gần 260 nghị
phụ Thượng HĐGM thứ 13 không nhóm họp, nhưng các vị tường trình viên của 12 nhóm nghị
phụ đã họp cả sáng lẫn chiều với Đức TGM Eterovic Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới,
và Đức Cha Pierre-Marie Carré, TGM giáo phận Monpellier, Tổng thư ký đặc biệt của
Thượng HĐGM này, để đúc kết các đề nghị do các nhóm đề ra thành một danh sách duy
nhất, hầu đệ trình toàn thể các nghị phụ trong phiên khoáng đại thứ 19 vào sáng thứ
ba 23-10-2012.
Trong khi đó, Phái đoàn Tòa Thánh gồm 7 vị do ĐHY Laurent Monsenwo,
TGM Kinshasa, Chủ tịch thừa ủy của Thượng HĐGM và trong đó có Đức cha Nguyễn Năng,
đang chuẩn bị lên đường sang thăm Siri. Tuy nhiên, tình hình địa phương trở nên căng
thẳng hơn với các cuộc khủng bố tại các khu vực Kitô giáo, nên cho đến hôm 22-10,
người ta chưa biết ngày lên đường của Phái đoàn.
Vài bài phát biểu
Sau đây chúng tôi xin gửi đến quí vị ý kiến của một số tham dự viên Thượng HĐGM hiện,
được giới báo chí đặc biệt chú ý.
Anh Tommaso Spinelli 23
tuổi, là người trẻ nhất tại Thượng HĐGM hiện nay. Anh thuộc Văn phòng giáo lý của
giáo phận Roma và chuyên dạy giáo lý cho người trẻ dự tòng. Anh cầu mong có những
linh mục vững chắc và can đảm.
Trong bài tham luận, anh Spinelli
nói với các nghị phụ: ”Công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng cần có chất lượng: cần
việc huấn giáo có bề dầy, biết nói một cái gì nghiêm túc đối với cuộc sống chúng ta,
và nhất là cần những chứng tá cuộc sống Kitô có bề dầy, chứng tỏ bằng sự kiện sự vững
chắc. Nhất là vì ngày nay các gia đình bị chia rẽ và thường từ bỏ vai trò giáo dục
của mình, nên cần có những linh mục chứng tỏ cho người trẻ sự trung thành với ơn gọi
và khả năng chọn lựa một cách sống khác, đẹp đẽ hơn so với những gì xã hội đề nghị.
Nhưng điều làm con lo âu là những nhân vật có bề dầy như thế đang trở thành thiểu
số. LM không còn tin tưởng nơi tầm quan trọng của sứ vụ mình thực hiện, đánh mất đoàn
sủng và văn hóa. Con thấy các linh mục chiều theo tư tưởng thịnh hành thời nay. Và
điều đó con cũng thấy trong các buổi cử hành phụng vụ, qua đó người ta tìm những gì
là độc đáo, khiến phụng vụ trở thành vô nghĩa. Thưa các LM, con xin các cha tìm lại
can đảm là chính mình, là LM đích thực, và nơi nào mà các cha đề nghị cho người trẻ
chân lý đức tin không chút sợ hãi, thì người trẻ chúng con sẽ theo các cha. Những
lời của thánh Phêrô cũng là những lời của người trẻ chúng con: ”Lạy Chúa chúng con
biết theo ai bây giờ? Chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Và chúng
con khao khát vô biên những gì là vĩnh cửu, là chân thực. Vì thế, con đề nghị:
Thứ I: tăng cường việc đào tạo linh mục, không những về linh đạo nhưng cả về văn hóa
nữa. Quá nhiều khi chúng con thấy những linh mục đã đánh mất vai trò là những thầy
dậy văn hóa đã từng làm cho các vị trở thành quan trọng cho toàn thể xã hội. Ngày
nay, nếu chúng ta muốn được tin cậy và hữu ích, thì chúng ta cần có những dụng cụ
văn hóa tốt.
Thứ II là tái khám phá sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo trong
đặc tính Công đồng của sách này: đặc biệt là phần thứ nhất của mỗi thiên, trong đó
các văn kiện Công đồng soi sáng các đề tài truyền thống. Thực vậy, sách giáo lý đã
khôn ngoan đặt trước phần giải thích kinh Tin Kính một phần được gợi hứng từ Hiến
Chế Dei Verbum (Lời Chúa), trong đó có giải thích cái nhìn duy nhân vị về mạc khải,
... Phần thứ I của mỗi thiên của sách Giáo Lý là điều cơ bản vì con người ngày nay
cảm thấy đức tin như một cái gì có liên hệ gần gũi với họ và có khả năng mang lại
câu trả lời cho những vấn nạn sâu xa nhát của họ.
Thứ III, là phụng vụ: quá
nhiều khi phụng vụ bị lơ là và làm mất tính chất thánh thiêng. Cần đặt phụng vụ ở
trung tâm của cộng đồng giáo xứ cũng như địa phương.
Tu
Huynh Alvaro Antonio Rodriguez Echeverría, người Costa Rica, Bề trên Tổng quyền
dòng Sư Huynh các trường Công Giáo, trong bài phát biểu, đã đặc biết đề cao tầm quan
trọng của giới trẻ. Thầy nói:
”Bản thân con, con nghĩ rằng các thế
hệ trẻ, không phân biệt đại lục hoặc những khác biệt văn hóa, phải là lãnh vực hoạt
động ưu tiên của công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, không những như những người
thụ động lãnh nhận, trái lại như những tác nhân tích cực, như lời Đức Gioan Phaolô
2 quả quyết rằng người trẻ là những tông đồ tốt nhất cho giới trẻ. Sự hiện diện của
người trẻ và một lời của họ trong Thượng HĐGM này có lẽ giúp chúng ta có một cái nhìn
sáng suốt hơn về tương lai.
Về phần chúng ta, điều quan trọng là biết thế
giới người trẻ và nỗ lực hội nhập văn hóa nơi họ. Biết những nhu cầu, lo âu, băn khoăn,
khát mong và hy vọng của họ, trao tặng họ Phúc Âm luôn luôn là Tin Mừng. Điều quan
trọng là khởi hành từ cuộc sống, vì người trẻ không quan tâm tới sứ điệp Kitô nếu
sứ điệp này được trình bày cho lý trí họ như một ý thức hệ, được áp đặt từ bên ngoài
một cách độc đoán, hoặc khởi hành từ những nguyên tắc tách rời khỏi đời sống thực
tế. Vì thế, vai trò chính yếu của chúng ta là giúp mỗi người trẻ cảm thấy được yêu
mến, quí chuộng, được chúc phúc và cảm thấy mình là quan trọng và cần thiết cho tha
nhân.
Việc tái truyền giảng Tin Mừng cho người trẻ của chúng ta và cho những
người tháp tùng họ phải là một lời kêu gọi trở về với Tin Mừng và khám phá rằng nòng
cốt đức tin của chúng ta là một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô dẫn tới một cộng đoàn
các môn đệ. Sứ mạng của chúng ta đối với người trẻ là trở thành những người đồng hành
với họ trong cuộc tìm kiếm, là những nhà hướng đạo khiêm tốn giúp khá phá một con
và mang lại một ý nghĩa cho cuộc sống. Thay vì là những thầy dậy từ trên cao hoặc
là những người phán xét và lên án từ bên ngoài,chúng ta được kêu gọi trở thành anh
chị tháp tùng từ bên trong. Người trẻ là một tin vui cho thế giới, nhưng chúng ta
phải tự hỏi làm thế nào để Tin Mừng của Chúa Giêsu là tin vui đối với họ. Trong một
thời đại như ngày nay trong đó người trẻ đang tìm một cái gì hơn nữa và cởi mở đối
với linh đạo, chún gta phải giáo dục họ gặp gỡ Thiên Chúa trong thẳm sâu tâm hồn họ,
có sức làm đầy sự trống rỗng trong cuộc sống và giúp họ như Chúa Giêsu đã làm, nhìn
thực tại và cảm động trước thực tại đó và dấn thân trong một hoạt động biến đổi.
ĐHY Antonio Maria Vegliò, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục
vụ di dân và người lưu động, trong bài tham luận tại Thượng HĐGM, đã nhấn mạnh đến
khía cạnh tích cực của hiện tượng di dân như một cơ hội đầy ý nghĩa đối với công cuộc
tái truyền giảng Tin Mừng, vì môi trường này có những người nam nữ, già trẻ, trải
qua những kinh nghiệm mạnh mẽ về cuộc sống, với những dự phóng, tình trạng bất an
và đau khổ, làm nổi bật những vấn nạn cấp thiết nhất về đời sốgn của họ và họ cảm
thấy cần phải mang lại một ý nghĩa cho cuộc sống thường nhật của họ. Đứng trước những
vấn nạn sâu xa, đức tin được coi như câu trả lời giải thích được những vấn nạn ấy,
soi sáng và làm cho chúng được tràn đầy ý nghĩa, và Chúa Kitô xuất hiện như chìa khóa
tuyệt hải để đọc cuộc sống con người.
ĐHY Vegliò cho biết Hội đồng
Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của hiện tượng
di dận, và toàn thể lãnh vực lưu động của con người. Lãnh vực này mang lại cho Giáo
Hội những cơ hội mới để rao giảng Tin Mừng. Đối với những người không biết Chúa Kitô
và định cư tại những nước có truyền thống Kitô giáo, có một thách đố được đề ra đó
là làm sao trình bày cho những người di dân huấn giáo Kitô. Đàng khác, những người
di dân đã được rao giảng Tin Mừng tại quốc gia nguyên quán họ có nhu cầu cần được
tháp tùng về mục vụ, giúp họ duy trì đức tin kiên vững, trong khi họ cũng có thể trở
thành những người rao giảng Tin Mừng.
Hiện tượng di dân cũng đặt vấn đề cho
cả các cộng đoàn tiếp cư, bó buộc họ không những phải xét lại những đề nghị rao giảng
Tin Mừng, nhưng còn thử thách chính niềm tin của các phần tử của mình, đặc biệt là
trong lúc phải loan báo đức tin cho tha nhân.
Do quan hệ không thể tách rời
giữa lòng mến Chúa và yêu người, sự hiện diện của những người lưu động cũng đòi Giáo
Hội phải có một câu trả lời liên đới, câu trả lời này đồng thời cũng có đặc tính rao
giảng Tin Mừng, vì đức bác ái ”là loan báo và làm chứng về đức tin” (ĐTC Biển Đức
16, Caritas in veritate, n.15). Lãnh vực đau khổ và liên đới chính là một môi trường
để đối thoại với thế giới và làm chứng tá về đức tin, nơi mà đức bác ái là dụng cụ
cơ bản để tái truyền giảng Tin Mừng.
Thách đố chính là làm sao biết dung hợp
và liên kết hai khía cạnh không thể tách rời, đó là sự rao giảng Tin Mừng một cách
minh nhiên và thăng tiến con người, tránh thu hẹp hoạt động của chúng ta vào một trong
hai, hoặc chỉ hài lòng với việc làm chứng tá âm thầm hoặc chỉ rao giảng Tin Mừng một
cách hiểu ngậm.
Thực vậy nơi những nhân viên mục vụ thuộc lãnh vực này, càng
ngày người ta càng ý thức rằng mối quan tâm về xã hội và việc loan báo Tin Mừng đích
thị đều thuộc về sứ vụ được ủy thác cho họ.
Trong bối cảnh sự di động của
con người, cả các cuộc hành hương cũng là một cánh đồng thuận lợi cho việc tái truyền
giảng Tin Mừng. Trong những thập niên gần đây chúng ta đã ý thức về khả thể này, đi
từ việc thực hành những việc sùng mộ đến một nền mục vụ hành hương, khám phá thấy
rằng cuộc hành hương trở thành một cơ hội để canh tân đức tin và cũng có thể là dịp
truyền giảng Tin Mừng lần đầu tiên. Theo nghĩa đó, tôi nhấn mạnh 5 ý tưởng có thể
được đào sâu: trước tiên cần sử dụng khả năng thu hút đến hành hương tại Đền thánh;
tiếp đến chúng ta cần chăm sóc việc mục vụ đón tiếp, đáp những theo những câu hỏi
nảy sinh từ tâm hồn người hành hương, để ý điều này là đề nghị của chúng ta phải trung
thành với đặc tính Kitô của cuộc hành hương, không thu hẹp, và sau cùng là giúp tín
hữu hành hương khám phá rằng hành trình của họ có một mục đích rõ ràng.
Vì
tất cả những điều đó, hiện tượng di động hiện nay của con người chắc chắn là một cơ
hội Chúa ban để loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay.