Phỏng vấn Đức Hồng Y Georges Cottier, dòng Đa Minh, nguyên
thần học gia Phủ Giáo Hoàng
Ngày 11 tháng 10 tới đây Đức Thánh
Cha Biển Đức XVI sẽ chủ sự thánh lễ khai mạc Năm Đức Tin. Đây cũng là địp kỷ niệm
50 năm khai mạc Công Đồng Chung Vaticăng II và 20 năm công bố Sách Giáo Lý của Hội
Thánh Công Giáo.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng
vấn Đức Hồng Y Georges Cottier, 90 tuổi người Thụy Sĩ, thuộc dòng Đa Minh, nguyên
thần học gia Phủ Giáo Hoàng.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, hồi khai
mở Công Đồng Chung Vaticăng II Đức Hồng Y đã
là một linh mục trẻ, mà Đức Cha Charles Provenchères chọn như
thần học gia riêng theo người tham dự Công Đồng
trong khóa họp thứ hai. Đức Hồng Y đã có kỷ niệm nào về
việc Đức Roncali được bầu làm Giáo Hoàng?
Đáp: Thành thật mà nói, tôi đã ngạc nhiên và hơi bị đảo lộn một chút về việc lựa
chọn một vị Hồng Y già nua như thế làm Giáo Hoàng. Vài môi trường đối kháng đã không
đánh giá cao Đức Roncali trong các năm người làm sứ Thần Tòa Thánh tại Paris. Nhưng
qúy vị có thấy người ta dễ lầm lẫn chừng nào không! Nhưng ngay từ diễn văn đầu của
người tôi đã nghĩ ”Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với con người này”, và tôi đã nghĩ
tới các mầm giống của các năm trước khi bắt đầu Công Đồng Chung. Nhất là người ta
hít thở bầu khí ước mong có các thay đổi, đặc biệt là giữa các thần học gia không
Roma.
Như là tu sĩ Đa Minh tôi đã chuẩn bị từ lâu trước, tìm cách trả lời
cho các ước mong mà tôi nghe nói tới. Việc đào tạo của tôi đã gắn liền tôi với các
Tiểu Đệ Chúa Giêsu, một cách đặc biệt với linh mục Jacques Loew, cũng dòng Đa Minh
và là linh muc thợ tại bến cảng Marseilles. Cha là một tu sĩ được qúy trọng bởi cả
một người rất nghiêm khắc như Đức Hồng Y Alfredo Ottoviani. Với cha, trong một căn
nhà ván trên núi Alpes, chúng tôi đã cùng viết bản thảo của một cuốn sách nói về các
thách đố mà Công Đồng sẽ phải tiếp nhận. Và theo tôi cuốn sách này ngày nay vẫn còn
thời sự và đã có một sự thành công kín đáo. Nó có tựa đề là ”Năng động của đức tin
và sự không tin”.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức
Hồng Y có kỷ niệm gì về ủy ban chuẩn bị và khóa họp thứ nhất của Công Đồng
Chung Vaticăng II không?
Đáp: Tôi nhớ rằng tôi đã bị ấn
tượng mạnh bởi sự kiện hai thần học gia Congar và De Lubac được chỉ định làm thành
viên của ủy ban thần học. Công Đồng Chung đã có thể tự giới thiệu như là một cơ may
rất lớn cho Giáo Hội, nhưng không ai biết nó sẽ phát triển ra sao. Cũng đã có nguy
cơ di chuyển trong một chân trời thu hẹp. Đức cha De Provenchères có trong tay tất
cả các lược đồ thần học của các đại học giáo hoàng Roma. Nhưng rất tiếc chúng là các
lược đồ cổ điển, không biết tới nhiều vấn đề mới mẻ rất được thảo luận trong Giáo
Hội thời đó. Tôi nhớ là tôi đã thảo luận với Đức Hồng Y Charles Journet về văn bản
liên quan tới sự Mạc Khải, và chúng tôi đều có cảm tưởng là nó thiếu hơi thở. Tôi
nghiên cứu tất cả chất liệu ấy, kể cả các nhận xét dĩ nhiên là viết bằng tiếng Latinh.
Hỏi: Đó là tình trang của tháng 10 năm 1962 xa xưa ấy,
nhưng rồi Công Đồng được khai thông, nhờ ”cuộc
nổi loạn” của các Giám Mục không chấp nhận các lược đồ
do Giáo Triều Roma dọn sẵn, có đúng vậy không thưa Đức
Hồng Y?
Đáp: Vâng, thật đúng như thế. Nhờ phản ứng của nhiều
Giám Mục Bỉ, Pháp, và Đức, và đặc biệt là của Đức Hồng Y Achile Liénart, sự áp đặt
của Giáo Triều Roma muốn bỏ phiếu các danh sách dọn sẵn trong việc chọn thành viên
của các ủy ban đã bị các nghị phụ khước từ. Các Giám Mục yêu cầu để cho các vị có
thời gian làm quen với nhau trước và hiểu biết nhau hơn. Lời yêu cầu được chấp nhận.
Và điều này đã đả thông các sự việc. Hồi đó đã có rất nhiều cấm đoán giữa các Giám
Mục. Cả Đức Cha De Provenchères là một người thực sự của Thiên Chúa, cũng đã bị Giáo
Triều Roma can thiệp vì một cuốn giáo lý công giáo Pháp. Rất nhiều văn bản được soạn
trước đã bị gạt ra ngoài lề, và như thế đã là điều tốt hơn, trong khi Công Đồng chú
trọng vào một số đề tài nòng cốt đối với Giáo Hội.
Hỏi: Đức
Hồng Y đã tham dự việc soạn thảo một tài liệu đã gây tranh
luận sôi nổi đó là tuyên ngôn ”Dignitatis Humanae” Nhân phẩm
con người. Tại sao việc soạn thảo lại đã vất vả như vậy
thưa Đức Hồng Y?
Đáp: Đây đã là một văn kiện bị chống đối
nhất của Công Đồng. Nhưng nó đã được đại đa số các nghị phụ chấp nhận, mặc dù có sự
chống đối quyết liệt của Đức Cha Marcel Lefèvre. Tôi phải công nhận rằng vào thời
đó Đức Cha không xem ra là một vị lãnh đạo: người hoạt động dưới bóng của Đức Cha
Luigi Carli, Giám Mục Segni, một vị Giám Mục tranh luận rất hăng hái và chống lại
tính cách giám mục đoàn. Tôi nhớ là Đức Cha Carli nói một thứ tiếng latinh rất là
hay đẹp, và đồng điệu với Đức Hồng Y Ottaviani là người minh xác tư tưởng của người,
nhưng sau cùng Đức Cha không chống lại Đức Giáo Hoàng. Vị đã nắm giữ vai trò chìa
khóa trong việc soạn thảo tài liệu ”Dignitatis Humanae” là linh mục John Courtney
Murray, người Mỹ, dòng Tên. Vì đến từ một nước trong đó tín hữu công giáo chỉ là thiểu
số so với các tín hữu tin lành, nên cha là người thích hợp hơn để giải thích đề tài
tự do tôn giáo. Các Giám Mục Hoa Kỳ đã chứng minh rằng tự do không phải là một vũ
khí chống lại tôn giáo, trong khi người âu châu chúng ta đã luôn luôn có mô thức của
Kitô giáo như là quốc giáo. Tôi nhớ là cha Jean Danielou đã yêu cầu tôi viết vài bài
đăng trên nguyêt san ”Nghiên cứu” của các cha dòng Tên Pháp về vấn đề hóc búa gây
tranh cãi này giữa các Nghi Phụ Công Đồng.
Hỏi: Ảnh hưởng
đang lên của Đức Hồng Y Journet liên quan tới tuyên ngôn này
đã thực sự đáng kể, có đúng thế không thưa
Đức Hồng Y?
Đáp: Đức Hồng Y Journet đã rất ủng hộ tài liệu
này và thảo luận rất nhiều với triết gia Jacques Maritain, và cả hai đều đồng có cùng
quan điểm về vấn đề này. Rất may là nhờ Đức Hồng Y Journet mới được thăng Hồng Y mà
tôi đã tháp tùng trong tư cách là chuyên viên trong khóa họp thứ tư, mà Công Đồng
đã hiểu rằng sự thật chắc chắn có các quyền của nó, nhưng con người, mỗi bản vị con
người còn có các quyền nền tảng hơn nữa: chính con người kiếm tìm chân lý và có bổn
phận phải chấp nhận chân lý khi tìm ra nó. Nhưng nó là một bổn phận trước mắt Thiên
Chúa, chứ không phải trước mặt nhà nước. Đức Hồng Y Journet đã đưa ra các giải thích
quan trọng về tất cả những điều này. Đức Hồng Y đã nổi tiếng là một chuyên gia lớn
về thần học của thánh Toma, một thần học gia cổ điển. Sự kiện người ủng hộ tài liệu
này đã cho phép nhiều Giám Mục bảo thủ yên tâm và chấp nhận văn bản chung kết.
Hỏi: Trong số các thần học gia tên tuổi thời Công Đồng đâu đã
là các cuộc gặp gỡ gây ấn tượng nhất đối với Đức
Hồng Y?
Đáp: Chắc chắn là sự chăm chỉ của cha Yves Marie Congar,
nhưng quan niệm thần học và giáo hội học của người khác với quan niệm của cha Jean
Danielou đã đánh động tôi rất nhiều. Chẳng hạn như tôi đã rất bị ấn tượng khi thấy
cha Gérard Philips, người Bỉ, vất vả soạn các bản thảo và lược đồ của tài liệu Lumen
Gentium. Thế rồi còn có trí thông minh và tính cuồng nhiệt như núi lửa của cha Karl
Rahner, mà theo tôi ngay từ hồi đó đã manh nha có vài chỉ trích đối với Giáo Hội,
và các chỉ trích này sẽ trở thành cụ thể thời hậu công đồng. Thế rồi tôi còn giữ một
kỷ niệm rất đẹp về cha Giuseppe Dossetti. Tôi nhận thấy nơi cha một tâm hồn rất thiêng
liêng, vì cha đã có kinh nghiệm đối với Quốc hội lập hiến Italia. Nhưng chúng tôi
rất hiểu nhau.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, có một tài liệu khác
chắc chắn còn ghi khắc trong tim Đức Hồng Y đó là tuyên ngôn
”Nostra Aetate”. Do lời yêu cầu của cha Yves Congar, năm 1966 Đức
Hồng Y sẽ viết một cuốn chủ giải tài liệu này. Nó đã có ý nghĩa nào
đối với Đức Hồng Y?
Đáp: Đối với tôi
đó đã là một trong các trang đẹp nhất của Công Đồng Chung Vaticăng II. Tôi đã say
mê nghiên cứu các tôn giáo không Kitô. Thế rồi tài liệu này nảy sinh từ một trực giác
lớn, từ cuộc gặp gỡ của Đức Gioan XXIII với sử gia Pháp gốc do thái Jules Isaac. Một
trong những người cổ võ và hoạt động ngầm bên dưới là Đức Cha Provenchères, vì triết
gia Jules Isaac sống trong giáo phận của người. Đây là một cuộc tiếp kiến sẽ đánh
dấu một khúc rẽ thần học: Ông Isaac trình lên Đức Gioan XXIII một tài liệu các tìm
kiếm ông đã hoàn thành trong các năm sau đệ nhị thế chiến, về các gốc rễ của khuynh
hướng bài do thái; với hy vọng là các tài liệu đó có thể thúc đẩy Công Đồng tương
lai thay đổi thái độ của Giáo Hội đối với Do thái giáo. Cuộc gặp gỡ đó đã là một khởi
đầu mới đối với các liện hệ giữa các tín hữu do thái và các tín hữu Kitô, sẽ được
đóng ấn bởi việc công bố tuyên ngôn ”Nostra Aetate” về các liên lạc với các tôn giáo
không Kitô.
Hỏi: Tài liệu này cũng đã gặp rất nhiều vất vả
trong việc soạn thảo, có đúng thế không thưa Đức Hồng
Y?
Đáp: Vâng, qủa đúng như vậy. Người ta chiến đấu với từng từ
một. Văn bản thứ nhất nói rằng ”Giáo Hội ”lên án và than phiền” về mọi hình thức bài
do thái. Sau cùng thì từ ”lên án” sẽ biến mất khỏi tuyên ngôn chung kết. Công Đồng
đã đi đến việc giàn xếp này để không gây khó chịu cho các Giáo Hội nhỏ vùng Trung
Đông, vì theo họ, việc công khai lên án khuynh hướng bài Do thái có nghĩa là ngấm
ngầm thừa nhận nước Israel. Tôi nhớ sự đắng cay của các vị như Maritain, Congar và
Journet, vì đã không đi tới một sự kết án rõ ràng hơn. Nhưng chắc chắn đó đã là một
thành công đối với những ngươi chủ trương đối thoại với Do thái giáo, đứng đầu là
Đức Hồng Y Agostino Bea. Tuyên ngôn Nostra Aetate đã là viên đá đầu tiên trong cuộc
đối thoại liên tôn, và nếu không có tài liệu này thì đã không có biến cố liên tôn
cầu nguyện cho hòa bình tại Assisi hồi năm 1986.
Hỏi: Đức
Hồng Y đã luôn luôn chủ trương rằng tinh thần lớn lao
của Công Đồng Chung Vaticăng II đã có vị đạo
diễn chính là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Đức Hồng Y có
thể cho biết lý do tại sao không?
Đáp: Tôi tin rằng nhất là bởi
vì cung cách Đức Phaolô VI đã hướng dẫn các cuộc họp. Đã không có ai trong những nghị
phụ bảo thủ cũng như canh tân đã có thể cho thấy các cử chỉ thiên vị nơi Phaolô VI.
Thế rồi còn có sự lựa chọn của Đức Phaolô VI trong việc làm lắng dịu các cuộc thảo
luận sôi nổi nhất, chẳng hạn như liên quan tới giám mục đoàn và quyền tối thượng của
ngai tòa Phêrô. Với tài liệu nổi tiếng Nota Praevia mà Đức Phaolô VI đã ban hành và
cống hiến một sự giải thích có uy tín vả đúng đắn nhất liên quan tới đề tài được thảo
luận. Tôi tin rằng người đã dạy cho tất cả các Nghị Phụ ý thức về một giám mục đoàn
sống động bắng cách trực giác trước các vị khác rằng Công Đồng không phải là một cuộc
họp quốc hội.