24-11: THÁNH ANRÊ DŨNG-LẠC VÀ CÁC BẠN TỬ-ĐẠO VIỆT-NAM
I. Theo Gương Thánh Phêrô
Quo vadis, Domine? Lạy Thày, Thày
đi đâu vậy?
Trên đường chạy trốn cơn bách hại khủng khiếp của bạo
chúa Néron đang giáng xuống kinh thành Roma, vị tông đồ trưởng Phêrô đã bàng hoàng
thốt lên câu hỏi trên khi bất ngờ gặp Chúa Giêsu vác Thập Giá đi ngược chiều với mình.
Sau đó là khoảng khắc im lặng ... Sự im lặng tưởng chừng như đến muôn đời sẽ không
bao giờ có giây phút nào im lặng như thế. Phêrô như đọc thấy câu trả lời trong ánh
mắt của Đức Kitô, có một chút gì giống ánh mắt Ngài đã nhìn mình sau ba lần chối Chúa.
Và trong bầu khí thinh lặng đó, chợt vọng tới tai ông giọng nói buồn bã nhưng ngọt
ngào: - Vì anh rời bỏ dân Thày, nên Thày phải đến
Roma để chịu đóng đinh một lần nữa.
Phêrô lặng người đi và chợt hiểu.
Vị sứ đồ
đã ra đi để xa lánh cơn điên cuồng của một bạo chúa, vì những lời nài nĩ chí tình
của đoàn tín hữu. Họ coi ngài là sức mạnh, là hơi thở, là chỗ dựa. Cần phải sống để
tiếp tục mưu ích cho đoàn chiên. Giờ đây, Phêrô được ôn lại bài học vĩ đại nhất của
vị Tôn Sư Giêsu, người thợ mộc làng Nagiarét đã chết gục vào tuổi 33 trên Thập Tự
để cứu chuộc nhân loại.
Thế là trong cái khoảng khắc kỳ diệu đó, thánh Phêrô
chợt nhớ ra. Để rồi thay vì những bước chân rời rã, do dự chạy trốn thì giờ đây ngài
bước một cách mạnh mẽ, dứt khoát quay lại... để có thể trở nên giống Thày mình. Từ
đó, trên đá tảng Phêrô, Roma trở nên kinh thành muôn thưở. Đâu có ai thời đó nghĩ
ra như thế. Vâng, đâu có ai thời đó đã hiểu được điều ấy.
Sau lần bị bắt thứ
ba, cha Anrê Dũng-Lạc như cảm nhận được bài học của thánh Phêrô xưa. Ý nghĩ con người
không hẳn đã phù hợp với ý Chúa. Ngài xin tín hữu đừng chuộc ngài nữa, ngài đã chấp
nhận hy sinh chính bản thân để trở nên một ngọn đèn, góp lửa với nhiều ngọn đèn khác
làm chứng cho Chúa trên quê hương yêu dấu này.
II. Thánh Anrê TRẦN AN DŨNG-LẠC,
Linh Mục (1795-1839)
1/ Ba Lần Bị Bắt
Sinh ra trong một
gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần An Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay
là Hà Nội. Tại đây vì nhà nghèo, cậu được gửi gấm cho một thày giảng nuôi nấng dạy
dỗ và rửa tội với tên thánh là Anrê. Ít lâu sau, cậu Dũng xin vào chủng viện Vĩnh
Trị, ở với cha chính Lan. Ngay từ đó, cậu Dũng lại siêng năng cần mẫn, có khiếu về
thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp hòa nhã. Có người nói rằng cậu
chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đã thuộc lòng.
Sau 10 năm làm thày giảng
và 3 năm thần học, ngày 15-3-1823, thày Dũng được lãnh chức linh mục (cùng với lớp
thánh Ngân và Nghi), rồi được bổ nhiệm làm phó xứ Đồng Chuối giúp cha Khiết. Sau đó
về giúp cha Thi ba năm ở xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng,
khi làm chánh xứ Kẻ Đầm thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm nhặt.
Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo Hội, cha còn giữ chay suốt Mùa Chay, và
nhiều khi cả các ngày thứ sáu, thứ bảy quanh năm. Thường xuyên cha chỉ dùng những
thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ chủ chăn, chẳng khi nào thấy cha
ngại ngùng việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt với người nghèo. Có được của cải gì,
cha chia xẻ cho họ hầu hết.
Khi lệnh bách hại của vua Minh Mạng trở nên gay
gắt qua chiếu chỉ toàn quốc ngày 6-1-1833, cha phải ẩn náu tại các nhà bổn đạo, sau
trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong thì quân lính ập
tới, cha liền cởi áo lễ và ngồi lẫn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong 30 giáo
hữu hôm đó, vì quan quân không biết cha là linh mục. Ông Tổng Thìn bỏ ra 6 nén bạc,
nhận cha là thân nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đấy cha đổi tên là Lạc.
Lần
thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen hàng tháng.
Lý trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải chuộc với giá 200
quan. Các tín hữu gom góp được 100 quan nên viên lý trưởng chỉ tha cha Lạc. Thế nhưng
ngay trên đường về, vì gặp mưa gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha đang trú
lại đang bị quân lính khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện
Bình Lục cùng với cha Thi.
Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức Cha Retord Liêu
tìm cách chuộc hai cha về, nhưng lần này cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình, ngài
nhắn về với Đức Cha câu chuyện thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba,
Chúa Giêsu đã yêu cầu ở lại tử đạo tại Roma, và xin các tín hữu đừng lo liệu tiền
chuộc làm chi nữa.
2/ Được Cảm Tình Mọi Giới
Quan huyện Bình Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền dọn cơm
cho hai cha bằng mâm bát của mình, bắt lý trưởng trả lại quần áo đã tịch thu và thanh
minh rằng: ”Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chứ không phải tôi. Tôi không
có tội gì trong việc này”. Ba ngày sau, quan huyện đưa hai cha xuống thuyền chuyển
về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ
trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: ”Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy?”
Một phụ nữ gần đó đáp lại: ”Thưa quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải,
dạy chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như
giáo lý trong đạo”.
Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa
mình, đã dừng lại an ủi và khích lệ họ sống đạo cho tốt đẹp.
Tại Hà Nội, sau
mấy lần tra hỏi, và dọa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không thành công, các quan
làm án xin vua xử trảm.
Thời gian trong tù, hai cha chiếm được tình cảm của
lính gác, được tôn trọng và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia
cho lính canh, chỉ giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, hai
cha quỳ bên nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù
mỗi ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm mình dặn họ đừng mang thịt hay cá làm chi, các
ngài vẫn tiếp tục giữ chay ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Những ngày đó,
hai cha ăn thật ít, vừa đủ.
Lễ Các Thánh (1-11-1839), linh mục Trân đưa Mình
Thánh Chúa vào ngục. Vừa thấy ngài, cha Lạc đã ra chào đón: ”Xin chào bác, tôi đợi
bác đã lâu vì hết lương thực rồi”. Sau đó, cha cung kính rước lễ, và trao Mình Thánh
cho cha già Thi.
Cuối năm 1839, khi quân lính đến công bố lệnh xử án, hai
cha vui vẻ đón nhận bản án như một phần thưởng trọng hậu. Trên đường đến pháp trường,
hai cha yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn
tiếng mấy câu La tinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lý hình đến nói
với cha: ”Chúng tôi không biết các thày tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên,
xin các thày đừng chấp”.
Cha Lạc tươi cười trả lời: ”Quan đã truyền anh cứ
thi hành”. Sau đó, hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho
lý hình chém.
Hai vị đã lãnh phúc tử đạo ngày 21-12-1839 tại bãi ngoài
cửa ô Cầu Giấy (Hà Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa
về an táng tại nhà bà Lý Quý gần đó.
Nhớ đến thánh Dũng-Lạc, phải nhớ đến
những vần thơ ngài tâm sự trong thư viết trong ngục cho cha Thực rằng:
Lạc rầy đã rõ chốn quân quan Bút chép thơ này gởi
thở than Lòng nhớ bạn, nỗi còn vất vả Dạ thương khách,
chạy chữa yên hàn, Đông qua tiết lại thì xuân tới
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an Làm kẻ anh hùng chi quản khó
Nguyện xin cùng gặp chốn thiên đàng.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878-1903)
suy tôn cha Anrê Trần An Dũng-Lạc lên bậc Chân Phước ngày 27-5-1900.
Chúa
Nhật 19-6-1988, trong bối cảnh Năm Thánh Mẫu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005)
đã long trọng nâng Cha Anrê Trần An Dũng-Lạc và 116 Bạn Tử-Đạo Việt-Nam lên hàng hiển
thánh. Thánh Lễ diễn ra tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong sách nhỏ - phân phát vào
dip này - ghi như sau:
LỄ TRỌNG Do Đức Thánh Cha GIOAN
PHAOLÔ II chủ sự để tôn phong lên bậc Hiển-Thánh Các Chân Phước ANRÊ DŨNG-LẠC, Linh-mục TÔMA THIỆN
và EMMANUELE PHỤNG, Giáo-dân GIRÔLAMÔ HERMOSILLA
và VALENTINÔ BERRIÔ-OCHOA, hai Giám-mục OP và 6 Giám-mục khác
TÊÔPHAN VÉNARD, Linh-mục Hội Thừa-sai Paris và 105 Bạn Tử-Đạo
Việt-Nam
Quảng-trường Thánh Phêrô, Vaticanô
19-6-1988
III. GIÁO HỘI VIỆT-NAM QUA CÁC THỜI ĐẠI
Công cuộc rao giảng Tin Mừng, khởi sự vào đầu thế kỷ thứ 16 tại hai địa phận đầu tiên
ở miền Bắc (Đàng Ngoài) và miền Nam (Đàng Trong) được
thiết lập vào năm 1659, qua các thế kỷ, đã biểu lộ sức phát triển lạ lùng, nhờ đó
ngày nay có được 26 địa phận (10 ở miền Bắc và 15 ở miền Nam). Hàng Giáo Phẩm đã được
thành lập (ngày 24 tháng 11 năm 1960), và trong toàn lãnh thổ Việt-Nam hiện nay có
tới 6 triệu người Công Giáo.
Kết quả này có được là nhờ hạt giống đức tin,
ngay từ những năm đầu tiên, đã hòa trộn với máu đào lai láng của các vị tử đạo đổ
xuống trên mảnh đất Việt-Nam, của các giáo sĩ ngoại quốc, giáo sĩ bản xứ và của giáo
dân Việt-Nam. Tất cả đã cùng chấp nhận những lao nhọc do việc tông đồ, đồng thời đã
cùng sát cánh đương đầu với cái chết để làm chứng cho chân lý Phúc Âm. Lịch sử Giáo
hội Việt-Nam đã ghi nhận 53 sắc lệnh do các Chúa Trịnh và Nguyễn, hay do các Vua hạ
bút ký, trong hơn hai thế kỷ, và suốt 261 năm (1625-1886), ra chỉ thị chống lại người
Kitô giáo bằng những cuộc bách hại gắt gao cứ mỗi lần thêm dữ dội. Có tới khoảng
130.000 người đã ngã gục khắp
nơi trong lãnh thổ Việt-Nam.
Người ta có thể nói rằng
trong các thế kỷ trước đây những vị chết vì Đức tin này đã bị chôn vùi một cách lặng
lẻ như là cùng nằm trong một ”Ngôi mộ của chiến sĩ vô danh”; tuy nhiên niềm thương
nhớ các Ngài vẫn còn sống động trong lòng người Việt-Nam.
Từ đầu thế kỷ 20,
có 117 vị trong số các anh hùng trên đây, là những người được coi là đã chịu đựng
các thử thách lớn lao hơn, đã được chọn và được Tòa Thánh tôn lên bậc Chân Phước:
- Năm 1900 thời Đức Giáo Hoàng Lêô XIII: 64 vị - Năm 1906 thời thánh Giáo Hoàng
Piô X: 8 vị - Năm 1909 thời thánh Giáo Hoàng Piô X: 20 vị - Năm 1951 thời
Đức Giáo Hoàng Piô XII: 25 vị
Các vị này được xếp theo các
quốc gia như sau:
* 11 vị người Tây-Ban-Nha: tất cả thuộc dòng
thánh Đaminh. Gồm 6 giám mục và 5 linh mục. * 10 vị người Pháp: tất cả thuộc Hội
Thừa Sai Paris. Gồm 2 Giám Mục và 8 linh mục. * 96 vị là người Việt-Nam: Gồm 36
linh mục (trong số đó có 11 linh mục dòng thánh Đaminh), và 59 tín hữu (trong đó có
một chủng sinh, 16 thầy giảng và một phụ nữ).
Các vị này là ”những người đến
từ cơn thử thách lớn lao: họ đã giặt áo của họ và giủ sạch trong trắng trong máu Con
Chiên” (Khải Huyền 7,13-14). Cuộc tử đạo của các Ngài được
xếp theo niên biểu sau đây:
- 2 vị tử đạo dưới thời Chúa Trịnh-Doanh
(1740-1767) - 2 vị tử đạo dưới thời Chúa Trịnh-Sâm (1767-1782) - 2 vị tử đạo
dưới thời Vua Cảnh-Thịnh (1792-1802) - 58 vị tử đạo dưới thời Vua Minh-Mạng (1820-1840)
- 3 vị tử đạo dưới thời vua Thiệu-Trị (1840-1847) - 50 vị tử đạo dưới thời Vua
Tự-Đức (1847-1883).
Tại pháp trường án lệnh của nhà
vua đặt bên mỗi vị, có ghi rõ hình thức mỗi bản án như sau:
* 75 vị bị xử chém đầu; * 22 vị bị xử bằng thừng thắt cổ; * 6 vị bị thiêu
sống; * 5 vị bị phân thây từng mảnh; * 9 vị bị tra tấn và chết rũ tù.
... KINH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Lạy Chúa là CHA Chí
Nhân, chúng con hân hoan ghi nhớ các ân huệ Chúa đã
ban cho dân tộc Việt Nam.
Nhờ lời rao giảng của Giáo Hội Cha Ông chúng con đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi. Các Ngài đã vững tin vào Chúa, là Đấng tạo
thành trời đất, và Chúa Kitô Đấng Cứu Thế
được sai đến trần gian.
Trong cơn gian
lao thử thách, Chúa đã ban cho Các Ngài sức mạnh của
Thánh Linh để Các Ngài can đảm tuyên
xưng Đức Tin, và hiên ngang hy sinh mạng sống, để
làm vinh quang Thập Giá Chúa Kitô.
Các Thánh Tử Đạo là
ân huệ Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam. Vì thế
chúng con dâng lời cảm tạ và ca tụng Chúa, hợp với cuộc hy sinh tử
đạo của các tiền nhân anh dũng chúng con.
Xin dâng
lên Chúa lời cảm tạ, để biểu lộ tình con thảo với Chúa là
CHA, bằng chứng từ đức tin sống động của chúng
con.
Vì công nghiệp của Các Thánh Tử Đạo xin
ban cho dân Việt Nam chúng con, được an vui và thịnh
vượng, cho mọi người đón nhận Tin Mừng
cứu rỗi, và bước theo con đường chân lý.
Xin cho Giáo Hội Việt Nam, được sống trong hòa thuận và hiệp
nhất, luôn thông hảo trọn vẹn với Đấng kế vị Thánh Phêrô, và hăng say lo việc tông đồ, nhiệt thành rao
giảng Đức Kitô cho mọi người.
Xin cho chúng
con được trung thành với Chúa ở trần gian để
ngày sau về hưởng vinh quang bất diệt cùng Các Thánh Tử
Đạo chúng con ở trên trời. Amen.
(THIÊN HÙNG SỬ 117 Hiển Thánh
Tử Đạo Việt Nam (Uống Nước Nhớ Nguồn), Cộng Đồng
Công Giáo Việt Nam, San Jose, California, Hoa Kỳ, Tái bản lần thứ nhất: Xuân Tân Mùi
1991, trang 503-506 /// Domenica 19 Giugno 1988 - Piazza San Pietro, Anno Mariano,
Tipografia Poliglotta Vaticana, trang 106-110).