Sáng ngày 17-10-2011, ĐTC đã cho công bố Tông thư tự sắc ngài ”Porta Fidei” về Năm
Đức Tin, trong đó ngài trình bày lý do, mục đích và những đường hướng chỉ đạo về việc
cử hành Năm này. Sau đây là bản dịch nguyên văn:
1. ”Cánh cửa đức tin” (Xc
Cv 14,27) dẫn vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội vẫn luôn mở rộng
cho chúng ta. Chúng ta có thể bước qua ngưỡng cửa đó khi Lời Chúa được loan báo và
để cho tâm hồn được ân thánh biến đổi. Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự dấn thân
trong một hành trình kéo dài suốt đời. Hành trình này bắt đầu với bí tích Rửa Tội
(Xc Rm 6,4), nhờ đó chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha, và kết thúc với sự tiến
qua cái chết đi vào sự sống đời đời, thành quả sự phục sinh của Chúa Giêsu, Đấng đã
muốn cho tất cả những người tin nơi Ngài (Xc Ga 17,22) được tham dự cùng vinh quang
của Ngài, nhờ hồng ân của Thánh Linh. Tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Ba Ngôi - Cha,
Con và Thánh Linh - cũng có nghĩa là tin nơi một Thiên Chúa duy nhất là Tình Thương
(Xc 1 Ga 4,8): Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến, khi thời gian viên mãn, để cứu độ
chúng ta; Chúa Giêsu Kitô đã cứu chuộc trần thế trong mầu nhiệm cái chết và sống lại
của Ngài; Chúa Thánh Linh dẫn đưa Giáo Hội qua dòng thời gian trong khi chờ đợi Chúa
tái lâm trong vinh quang.
2. Ngay từ khi bắt đầu sứ vụ như Người Kế Vị Thánh
Phêrô, tôi đã nhắc nhở về sự cần thiết phải tái khám phá hành trình đức tin để ngày
càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say phấn khởi được đổi mới nhờ được gặp gỡ
Chúa Giêsu. Trong bài giảng Thánh Lễ khai mạc triều đại Giáo Hoàng, tôi đã nói: ”Giáo
Hội nói chung và các vị Mục Tử trong Giáo Hội, giống như Chúa Kitô, phải lên đường,
để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc, tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên
Chúa, về Đấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống sung mãn” (1). Nhưng xảy ra là nhiều
khi các tín hữu Kitô bận tâm nhiều hơn tới những hậu quả xã hội, văn hóa và chính
trị trong sự dấn thân của họ, họ tiếp tục nghĩ tới đức tin như một điều giả thiết
hiển nhiên của cuộc sống chung. Trong thực tế, giả thiết ấy không còn hiển nhiên như
vậy nữa, nhưng thậm chí nhiều khi còn bị phủ nhận (2). Trong quá khứ người ta có thể
nhận ra một hệ thống văn hóa nhất thống, được đa số chấp nhận, có tham chiếu nội dung
đức tin và các giá trị được đức tin gợi hứng, nhưng ngày nay, trong phần lớn các lãnh
vực xã hội không còn như thế nữa, vì có cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa nơi nhiều
người.
3. Chúng ta không thể chấp nhận để cho muối trở nên nhạt và ánh sáng
bị che kín (Xc Mt 5,13-16). Cả con người ngày nay cũng có thể tái cảm thấy nhu cầu
như người phụ nữ xứ Samaria đến giếng nước để lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng mời gọi hãy
tin nơi Người và kín múc nơi nguồn mạch của Ngài vọt lên dòng nước sự sống (Xc Ga
4,14). Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa được Giáo Hội
trung thành truyền lại, và bằng Bánh Sự Sống, được trao ban để nâng đỡ các môn đệ
của Chúa (Xc Ga 6,51). Thực vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ
ngày nay như trước đây: ”Các con hãy cố gắng làm việc không phải để được lương thực
mau qua, nhưng là lương thực tồn tại mãi mãi” (Ga 6,27). Câu hỏi mà những người nghe
Chúa nêu lên cũng là thắc mắc đối với chúng ta ngày này: ”Chúng tôi phải làm gì thể
thi hành những công việc của Thiên Chúa?” (Ga 6,28). Chúng ta biết câu trả lời của
Chúa Giêsu: ”Công việc của Thiên Chúa là: Anh em hãy tin nơi Đấng mà Ngài đã sai đến”
(Ga 6,29). Vì thế, tin nơi Chúa Giêsu Kitô là con đường để có thể đạt tới ơn cứu độ
một cách vĩnh viễn. 4. Dưới ánh sáng tất cả những điều đó, tôi quyết định ấn định
Năm Đức Tin. Năm này sẽ bắt đầu từ ngày 11 tháng 10 năm 2012, kỷ niệm 50 năm khai
mạc Công đồng chung Vatican 2, và sẽ kết thúc vào lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, ngày 24
tháng 11 năm 2013. Ngày 11-10-2012 chúng ta cũng kỷ niệm 20 năm ”Sách Giáo Lý của
Hội Thánh Công Giáo”, được vị Tiền Nhiệm của tôi, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan
Phaolô 2 (3) công bố, với mục đích trình bày cho tất cả các tín hữu sức mạnh và vẻ
đẹp của đức tin. Văn kiện này, thành quả đích thực của Công đồng chung Vatican 2,
đã được Thượng HĐGM khóa đặc biệt năm 1985 mong ước như một dụng cụ để phục vụ việc
huấn giáo (4) và được thực hiện với sự cộng tác của toàn thể hàng Giám Mục của Giáo
Hội Công Giáo. Và chính Thượng HĐGM đã được tôi triệu tập vào tháng 10 năm 2012 về
đề tài ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô”. Đó sẽ là một dịp
thích hợp để dẫn đưa toàn thể cộng đoàn Giáo Hội tiến vào một thời điểm để đặc biệt
suy tư và tái khám phá đức tin. Đây không phải lần đầu tiên Giáo Hội được kêu gọi
cử hành Năm Đức Tin. Vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi, Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6 cũng
đã ấn định Năm Đức Tin như thế hồi năm 1967, để tưởng niệm 1900 năm cuộc tử đạo của
thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ khi làm chứng tá tột đỉnh. Người đã nghĩ đến năm đó
như một thời điểm long trọng để trong toàn thể Giáo Hội có ”một sự tuyên xưng cùng
đức tin ấy một cách đích thực và chân thành”; ngoài ra, Người muốn rằng đức tin được
củng cố ”cá nhân và tập thể, tự do và ý thức, trong nội tâm cũng như bên ngoài, khiêm
tốn và chân thành” (5). Qua đó, Đức Cố Giáo Hoàng đã nghĩ rằng toàn thể Giáo Hội có
thể ”tái ý thức chính xác về đức tin của mình, để làm cho đức tin được tái sinh động,
thanh tẩy, củng cố, để tuyên xứng đức tin” (6). Những đảo lộn lớn xảy ra trong năm
Đức Tin ấy, càng làm cho sự cần thiết cử hành như thế trở nên hiển nhiên hơn. Việc
cử hành Năm Đức Tin ấy đã kết thúc với ”Bản tuyên xưng Đức Tin của Dân Chúa” (7),
để làm chứng rằng các nội dung thiết yếu từ bao thế kỷ vốn là gia sản của mọi tín
hữu, đang cần được củng cố, hiểu biết và đào sâu một cách ngày càng mới mẻ để làm
chứng tá hợp với cuộc sống trong những hoàn cảnh lịch sử khác với quá khứ.
5. Dưới một số khía cạnh, vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi đã coi Năm Đức Tin ấy như
”một hệ luận và là một đòi hỏi sau Công đồng” (8), Ngài ý thức rõ về những khó khăn
lớn của thời ấy, nhất là về việc tuyên xưng đức tin chân thực và giải thích đúng đắn.
Tôi cho rằng việc khởi sự Năm Đức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng
chung Vatican 2 có thể là một cơ hội thích hợp để hiểu rằng các văn kiện Công đồng,
được các Nghị Phụ để lại như gia sản, ”không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi sáng”.
Cần đọc các văn kiện ấy một cách thích hợp, cần biết rõ và hấp thụ các văn kiện ấy
như những văn bản giá trị và có tính chất qui phạm của Huấn Quyền Hội Thánh, giữa
lòng Truyền Thống của Giáo Hội.. Hơn bao giờ hết tôi cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao
Công đồng như ”hồng ân lớn lao mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ 20”: trong đó chúng
ta được một địa bàn chắc chắn để định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra”
(9). Tôi cũng muốn mạnh mẽ lập lại điều tôi đã quả quyết về Công đồng vài tháng sau
khi tôi được bầu kế vị Thánh Phêrô, rằng: ”Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công đồng,
với sự giải thích đúng đắn, thì Công đồng ngày càng có thể và trở thành sức mạnh lớn
để thực hiện sự canh tân Giáo Hội ngày càng cần thiết” (10).
6. Sự canh tân
Giáo Hội cũng tiến hành qua chứng tá cuộc sống của các tín hữu, qua chính cuộc sống
giữa trần thế, các tín hữu được mời gọi làm cho Lời Chân lý mà Chúa Giêsu để lại cho
chúng ta được chiếu sáng rạng ngời. Chính Công đồng, trong Hiến chế tín lý Lumen gentium,
Ánh sáng muôn dân, đã quả quyết: ”Trong khi Chúa Kitô, 'là đấng thánh, vô tội, không
tỳ ố' (Dt 7,26) không hề biết tội (Xc 2 Cr 5,21), đã đến để đền tội bù tội lỗi của
dân (Dt 2,17), thì Giáo Hội, có cả những người tội lỗi trong cộng đoàn của mình, và
vì thế Giáo Hội vừa thánh thiện đồng thời cũng luôn cần được thanh tẩy, vẫn liên tục
tiến bước trên con đường thống hối và canh tân. Giáo Hội ”tiếp tục cuộc lữ hành giữa
những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa”, loan bao cuộc khổ
nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến (Xc 1 Cr 11,26). Từ sức mạnh của Chúa
phục sinh, Giáo Hội kín múc năng lực để kiên trì và yêu thương khắc phục những sầu
muộn và khó khăn, đến từ bên trong cũng như bên ngoài, và để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa,
giữa lòng thế giới, một cách trung thực, tuy không hoàn hảo, cho đến khi mầu nhiệm
ấy được tỏ lộ trong ánh sáng sung mãn vào cuối thời gian” (11).
Trong viễn
tượng đó, Năm Đức Tin là một lời mời gọi thực hiện một cuộc trở về cùng Chúa là Đấng
duy nhất cứu độ thế giới, một cách chân thực và mới mẻ. Trong mầu nhiệm sự chết và
sống lại, Thiên Chúa đã biểu lộ trọn vẹn Tình Thương cứu độ và kêu gọi con người hoán
cải cuộc sống nhờ ơn tha thứ tội lỗi (Xc Cv 5,31). Đối với thánh Phaolô Tông Đồ, Tình
Thương ấy dẫn con người đến cuộc sống mới: ”Nhờ phép rửa, chúng ta cùng được chôn
táng với Chúa trong cái chết, để như Chúa Kitô sống lại từ cõi chết nhờ vinh quang
của Chúa Cha, cả chúng ta cũng có thể bước đi trong sự sống mới” (Rm 6,4). Nhờ đức
tin, sự sống mới này hình thành toàn thể cuộc sống con người theo sự mới mẻ tuyệt
đối của sự sống lại. Tùy theo mức độ tự nguyện sẵn sàng, các tư tưởng và tình cảm,
tâm thức và thái độ của con người dần dần được thanh tẩy và biến đổi, trên con đường
không bao giờ được hoàn tất ở đời này. Đức tin ”được năng động nhờ đức mến” (Gl 5,6)
trở thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống
của con người (Xc Rm 12,2; Cl 3,9-10; Ep 4,20-29; 2 Cr 5,17).
7. ”Tình yêu
Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14): chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm hồn
chúng ta và thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng. Ngày nay cũng như xưa kia, Chúa sai
chúng ta ra đi trên các nẻo đường thế giới để công bố Tin Mừng của Ngài cho mọi dân
tộc trên trái đất (Xc Mt 28,19). Chúa Giêsu Kitô yêu thương, lôi kéo con người thuộc
mọi thế hệ đến với Ngài: trong mọi thời đại, Ngài triệu tập Giáo Hội, ủy thác cho
Giáo Hội việc loan báo Tin Mừng, với một mệnh lệnh luôn luôn mới mẻ. Vì thế, ngày
nay cũng cần có một sự dấn thân xác tín hơn nữa của Giáo Hội, thực hiện công cuộc
tái truyền giảng Tin Mừng để tái khám phá niềm vui đức tin và tìm lại sự hăng say
thông truyền đức tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu - vốn là điều không
thể thiếu - kín múc được sức mạnh và năng lực trong sự khám phá hằng ngày tình yêu
của Chúa. Thực vậy, đức tin tăng trưởng khi được sống như một cảm nghiệm về tình yêu
đã nhận lãnh và khi được thông truyền như một kinh nghiệm về ơn thánh và niềm vui.
Đức tin phong phú hóa, vì mở rộng con tim trong niềm hy vọng và giúp mang lại một
chứng tá có khả năng sinh sản: nó mở rộng tâm trí của những người lắng nghe và đón
nhận lời Chúa mời gọi gắn bó với Lời Ngài để trở thành môn đệ của Ngài. Thánh Augustino
làm chứng rằng các tín hữu ”trở nên vững mạnh hơn nhờ tin tưởng” (12). Thánh Giám
Mục thành Hippone đã có lý khi nói như vậy. Như chúng ta biết, cuộc sống của thánh
nhân là một cuộc không ngừng tìm kiếm vẻ đẹp của đức tin cho đến khi tâm hồn ngài
được nghỉ an trong Thiên Chúa (13). Nhiều tác phẩm của Người, trong đó có giải thích
tầm quan trọng của đức tin và chân lý đức tin, cho đến nay vẫn còn là một gia sản
phong phú khôn sánh và giúp bao nhiêu người tìm kiếm Thiên Chúa thấy được hành trình
đúng đắn để tiến tới ”cánh cửa đức tin”. Vì vậy, chỉ nhờ tin tưởng mà đức tin
tăng trưởng và vững mạnh; không có cách khác để đạt tới sự chắc chắn về chính cuộc
sống của mình nếu không liên tục phó thác trong tay của một tình yêu ngày càng được
cảm nghiệm lớn lao hơn vì bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
8. Trong dịp kỷ niệm
tốt đẹp này, tôi muốn mời gọi các anh em GM trên toàn thế giới hãy hiệp với Người
Kế Vị Thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng mà Chúa ban cho chúng ta,
để tưởng niệm hồng ân đức tin quí giá. Chúng ta hãy cử hành Năm Đức Tin này một cách
xứng đáng và phong phú. Cần gia tăng suy tư về đức tin để giúp tất cả các tín hữu
của Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin Mừng, nhất là trong lúc có
những thay đổi sâu xa mà nhân loại đang trải qua như hiện nay. Chúng ta sẽ có dịp
tuyên xưng đức tin nơi Chúa Phục Sinh trong các nhà thờ chính tòa của chúng ta và
các thánh đường trên toàn thế giới; trong các gia cư và gia đình chúng ta, để mỗi
người mạnh mẽ cảm thấy nhu cầu cần biết rõ hơn về đức tin ngàn đời và thông truyền
cho các thế hệ trẻ. Các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể các tổ
chức Giáo Hội cũ cũng như mới, hãy tìm cách làm cho việc tuyên xưng Kinh Tin Kính
một cách công khai trong Năm Đức Tin này.
9. Chúng ta mong muốn rằng Năm Đức
Tin khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng đức tin trọn vẹn và với xác tín
được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này sẽ là một cơ hội thích hợp để
tăng cường việc cử hành đức tin trong phụng vụ, đặc biệt là trong Thánh Thể, vốn là
'tột đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội hướng tới và đồng thời cũng là nguồn mạch từ đó
phát sinh toàn thể năng lực của Giáo Hội” (14). Đồng thời, chúng ta mong muốn rằng
cuộc sống chứng tá của các tín hữu tăng trưởng trong sự đáng tín nhiệm. Tái khám phá
nội dung đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống và cầu nguyện (15), và suy tư về chính
hành động đức tin, đó là một sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình,
nhất là trong Năm Đức Tin này.
Không phải tình cờ mà trong những thế kỷ đầu
tiên, các tín hữu Kitô phải học thuộc lòng kinh Tin Kính. Kinh này được dùng như kinh
nguyện hằng ngày của họ để không quên quyết tâm đã nhận khi chịu phép rửa. Với những
lời xúc tích đầy ý nghĩa, thánh Augustino nhắc nhở điều đó khi ngài nói trong một
bài giảng về việc trao Kinh Tinh Kính: ”Kinh Tin Kính về mầu nhiệm thánh mà tất cả
anh chị em cùng nhận lãnh nhận và ngày nay anh chị em từng người đọc lên, là những
lời đức tin của Mẹ Giáo Hội được xây dựng vững chắc trên nền tảng vững bền là Chúa
Kitô.. Vì vậy, anh em đã nhận lãnh và đọc Kinh ấy, nhưng trong tâm trí anh chị em
phải luôn giữ cho Kinh ấy hiện diện, anh chị em phải lập lại Kinh này trên giường,
nghĩ đến Kinh này nơi đường phố và đừng quên Kinh này khi ăn; cả khi anh chị em ngủ,
con tim của anh chị em vẫn phải tỉnh thức trong Kinh này” (16).
10. Đến đây,
tôi muốn vạch ra một hành trình giúp hiểu một cách sâu xa hơn nội dung đức tin, nhưng
cùng với nội dung này còn có hành động qua đó chúng ta quyết định hoàn toàn phó thác
cho Thiên Chúa, trong tự do trọn vẹn. Thực vậy, có sự hiệp nhất sâu xa giữa hành vi
tin tưởng và nội dung đức tin mà chúng ta chấp nhận. Thánh Phaolô Tông đồ giúp đi
vào thực tại này khi ngài viết: ”Với con tim.. ta tin, và bằng miệng ta tuyên xưng
đức tin” (Rm 10,10). Con tim chỉ rằng hình vi đầu tiên ta đạt đến đức tin la một hồng
ân của Thiên Chúa và tác động của ơn thánh hành động và biến đổi con người ngay từ
nội tâm.
Tấm gương của bà Lidia về vấn đề này hùng hồn hơn bao giờ hết. Thánh
Luca kể lại rằng Thánh Phaolô, trong lúc ở thành Philiphê, vào ngày thứ bẩy ngài đi
rao giảng Tin Mừng cho vài phụ nữ; trong số họ có bà Lidia và Chúa ”mở lòng cho bà
tin lời thánh Phaolô” (Cv 16,14). Ý nghĩa cô đọng trong câu ngày thực là quan trọng.
Thánh Luca dạy rằng việc hiểu biết nội dung đức tin không đủ nếu con tim, - vốn là
cung thánh đích thực của con người,- không cởi mở đối với ơn thánh, giúp ta có đôi
mắt để nhìn sâu xa và hiểu rằng điều được loan báo chính là Lời Chúa.
Rồi
việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức tin bao gồm việc làm chứng và dấn thân công
khai. Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng đức tin là một điều riêng tư. Đức tin
là quyết định đứng về phía Chúa để sống với Ngài. Và thành ngữ ”ở với Chúa” giúp hiểu
biết những lý do tại sao ta tin. Chính vì đức tin là một hành vi tự do, nên cũng đòi
hỏi một trách nhiệm xã hội về những gì ta tin. Giáo Hội, trong ngày lễ Chúa Thánh
Thần hiện xuống, đã chứng tỏ rõ ràng chiều kích công khai ấy của việc tin tưởng và
loan báo không chút sợ hãi về niềm tin của mình cho mỗi người. Đó là một hồng ân của
Chúa Thánh Linh làm cho ta có khả năng thi hành sứ mạng và củng cố việc làm chứng
tá của chúng ta, biến chứng tá ấy thành điều thẳng thắn và can đảm.
Chính
việc tuyên xưng đức tin là một hành vi bản thân và đồng thời cũng có tính chất cộng
đoàn. Thực vậy, chính Giáo Hội là chủ thể đầu tiên của đức tin. Trong đức tin của
cộng đoàn Kitô, mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa tội, là dấu chỉ hữu hiệu về sự gia
nhập cộng đoàn các tín hữu để được ơn cứu độ. Như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công
Giáo làm chứng: ”Tôi tin”; là đức tin của Giáo hội được mỗi tín hữu tuyên xưng cá
nhân, nhất là trong lúc chịu phép Rửa tội. ”Chúng tôi tin” là đức tin của Giáo hội
được các Giám Mục họp nhau trong Công đồng, hoặc tổng quát hơn, được cộng đồng phụng
vụ các tín hữu tuyên xưng. ”Tôi tin” cũng là Giáo Hội Mẹ chúng ta, đáp lại Thiên Chúa
bằng đức tin của mình và dạy chúng ta nói ”Tôi tin”, ”Chúng tôi tin” (17).
Như ta có thể nhận xét, việc hiểu biết nội dung đức tin là điều thiết yếu để chấp
nhận tin, nghĩa là hoàn toàn gắn bó trong tâm trí với những gì Giáo Hội đề nghị. Việc
hiểu biết đức tin dẫn vào toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mạc khải. Vì vậy
sự chấp nhận ấy được biểu lộ bao hàm điều này là, khi ta tin, ta tự nguyện chấp nhất
toàn thể mầu nhiệm đức tin, vì vị bảo đảm tính chất xác thực của điều ta tin là chính
Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải và cho phép được biết mầu nhiệm tình thương của Ngài
(18).
Đàng khác, chúng ta không thể quên rằng trong bối cảnh văn hóa của chúng
ta ngày nay, bao nhiêu người, tuy không nhìn nhận hồng ân đức tin nơi mình, nhưng
họ chân thành tìm kiếm ý nghĩa chung kết và chân lý chung cục về cuộc sống của họ
và về thế giới. Sự tìm kiếm này thực là một ”tiền đề” của đức tin, vì nó thúc đẩy
con người trên con đường dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Thực thế, chính lý trí con
người mang trong mình một đòi hỏi về ”điều có giá trị và tồn tại mãi mãi” (19). Đòi
hỏi ấy là một lời mời gọi trường kỳ, được ghi khắc không hề phai mờ trong tâm hồn
con người, kêu gọi con người lên đường để tìm thấy Đấng mà chúng ta sẽ không tìm kiếm
nếu Ngài đã không đến gặp chúng ta (20). Chính đức tin mời chúng ta đi tới cuộc gặp
gỡ ấy và mở cho chúng ta sự viên mãn.
11. Để hiểu biết một cách hệ thống về
nội dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm thấy trong Sách Giáo Lý của Hội
Thánh Công Giáo một trợ lực quí giá và không thể thiếu được. Sách này là một trong
những thành quả quan trọng nhất của Công Đồng chung Vatican 2. Trong Tông Hiến ”Fidei
depositum” (Kho tàng đức tin), không phải tình cờ được ký vào ngày kỷ niệm 30 năm
khai mạc Công đồng chung Vatican 2, Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 đã viết: ”Sách Giáo
lý nà sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình canh tân toàn thể đời sống
Giáo Hội.. Tôi nhìn nhận Sách này như một dụng cụ giá trị và hợp pháp phục vụ tình
hiệp thông của Giáo Hội và như một qui luật chắc chắn để giảng dạy đức tin” (21).
Trong viễn tượng đó, Năm Đức Tin phải biểu lộ sự dấn thân chung tái khám phá và học
hỏi nội dung cơ bản của đức tin ở trong Sách Giáo Lý này, trong đó có một tổng hợp
có hệ thống. Thực vậy, ở đây, ta thấy nổi bật sự phong phú của giáo huấn mà Giáo Hội
đã đón nhận, gìn giữ và trao tặng trong hai ngàn năm lịch sử của mình. Từ Kinh Thánh
tới các Giáo Phụ, từ các vị Tôn Sư thần học cho đến cách Thánh qua các thế kỷ, Sách
Giáo Lý cống hiến một ký ức trường kỳ về bao nhiêu cách thức Giáo Hội suy niệm về
đức tin và tạo nên sự tiến triển trong đạo lý để mang lại sự chắc chắn cho các tín
hữu trong đời sống đức tin của họ.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, qua
cấu trúc của mình, trình bày sự phát triển đức tin và đề cập đến cả những đề tài chính
của đời sống hằng ngày. Trang này sang trang khác, chúng ta khám phá thấy rằng điều
được trình bày trong Sách Giáo Lý không phải là một lý thuyết, nhưng là một cuộc gặp
gỡ với Đấng sống trong Giáo Hội. Thực vậy, sau khi tuyên xưng đức tin, Sách này đi
đến phần giải thích đời sống bí tích, trong đó Chúa Kitô hiện diện, hoạt động và tiếp
tục xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nếu không có phụng vụ và các bí tích thì việc tuyên
xưng đức tin sẽ không hiệu quả, vì thiếu ơn thánh nâng đỡ chứng tá của các tín hữu
Kitô. Cũng vậy, giáo huấn của Sách Giáo Lý về đời sống luân lý có một ý nghĩa quan
trọng nếu được đặt trong tương quan với đức tin, phụng vụ và kinh nguyện.
12. Vì thế, trong Năm Đức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có thể là một
dụng cụ đích thực nâng đỡ đức tin, nhất là những người quan tâm đến việc huấn luyện
các tín hữu Kitô, một điều rất quan trọng trong bối cảnh văn hóa ngày nay. Với mục
đích đó, tôi đã mời gọi Bộ giáo lý đức tin, thỏa thuận với các Cơ quan trung ương
khác của Tòa Thánh, soạn một Văn kiện, để cống hiến cho Giáo Hội và các tín hữu một
số chỉ dẫn để sống Năm Đức Tin này một cách hiệu quả và thích hợp hơn, phục vụ sự
tin tưởng và rao giảng Tin Mừng.
”Thực vậy, so với quá khứ, đức tin ngày nay
đang phải chịu một loạt những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là ngày
nay não trạng này thu hẹp lãnh vực những điều chắc chắn hợp lý vào lãnh vực những
chinh phục của khoa học và kỹ thuật. Nhưng Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng
giữa đức tin và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự
thật, tuy là bằng những con đường khác nhau (22).
13. Một điều quan trọng
trong Năm Đức tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm
khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp
lớn lao của những người nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng
tá cuộc sống của họ, còn lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán cải chân thành
và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Đấng đến gặp tất cả mọi người.
Trong thời điểm này, chúng ta hãy luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu Kitô, ”là nguồn gốc
và là tận điểm của đức tin” (Dt 12,2): nơi Ngài mọi sóng gió và khát vọng của tâm
hồn con người được hoàn tất. Niềm vui của tình yêu, lời đáp trả thảm trạng đau khổ,
sức mạnh của tha thứ trước sự xúc phạm phải chịu, và chiến thắng của sự sống trước
cái trống rỗng của sự chết, tất cả đều tìm được sự hoàn tất trong mầu nhiệm nhập thể
của Chúa, mầu nhiệm Chúa làm người, chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta để biến đổi nó
bằng quyền năng sự phục sinh của Ngài. Trong Ngài, là Đấng đã chết và sống lại để
cứu độ chúng ta, những tấm gương đức tin được tràn đầy ánh sáng, những tấm gương đã
ghi dấu 2 ngàn năm lịch sử cứu độ chúng ta.
Nhờ đức tin Mẹ Maria đã đón nhận
lời thiên thần và tin nơi lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa trong sự tuân
phục tận tụy của Mẹ (Xc Lc 1,38). Khi viếng thăm bà Elisabeth, Mẹ cất bài ca chúc
tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Chúa thực hiện nơi những người tín thác nơi Ngài
(Xc Lc 1,46-55). Mẹ vui mừng và hồi hộp sinh hạ Con duy nhất, mà vẫn giữ nguyên sự
đồng trinh (...) (Xc Lc 2,6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse hôn phu, Mẹ mang Chúa Giêsu
sang Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (Xc Mt 2,13-15). Với cùng đức
tin Mẹ theo Chúa trong thời gian giảng đạo và ở với Chúa cho đến tận đồi Golgota (Xc
Ga 19,25-27). Với đức tin, Mẹ Maria niếm hưởng những thành quả đầu tiên của cuộc phục
sinh của Chúa Giêsu, và cẩn giữ mọi kỷ niệm trong lòng (Xc Lc 2,19.51), Mẹ thông truyền
kỷ niệm ấy cho 12 Tông Đồ tụ họp với Mẹ trong Nhà Tiệc Ly để lãnh nhận Thánh Linh.
Nhờ đức tin, các Tông Đồ đã từ bỏ mọi sự để theo Thầy (Xc Mc 10,28). Các vị tin nơi
lời Chúa loan báo Nước Trời hiện diện và thể hiện nơi bản thân Ngài (Xc Lc 11,20.
Các Tông đồ sống hiệp thông với Chúa Giêsu Đấng dạy dỗ các vị qua lời giáo huấn, để
lại cho các vị qui luật sống mới mẻ qua đó người ta nhận ra họ là môn đệ của Ngài
sau khi Ngài qua đời (Cx Ga 13,34-35). Nhờ đức tin, các vị đi các nơi trên thế giới,
theo mệnh lệnh mang Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xc Mc 16,15) và không chút sợ hãi, các
vị loan báo cho mọi người niềm vui Phục sinh mà các vị đã chứng kiến.
Nhờ
đức tin các môn đệ họp thành cộng đoàn đầu tiên, tụ tập quanh giáo huấn của các Tông
Đồ, trong kinh nguyện, trong việc cử hành Thánh Thể, để làm của chung những gì họ
sở hữu để cứu giúp những anh chị em túng thiếu (Xc Cv 2,42-47).
Nhờ đức tin
các vị tử đạo hiến mạng sống của mình để làm chứng về chân lý Phúc Âm đã biến cải
và làm cho họ có khả năng đi tới hồng ân tính yêu lớn nhất với việc tha thứ cho những
kẻ bách hại họ.
Nhờ đức tin những người nam nữ đã dâng hiến cuộc sống mình
cho Chúa Kitô, bỏ mọi sự để sống, trong sự đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm, sự vâng
phục, thanh bần và khiết tịnh, những dấu chỉ cụ thể về sự chờ đợi Chúa sắp đến. Nhờ
đức tin bao nhiêu Kitô hữu đã thăng tiến những hoạt động bênh vực công lý để cụ thể
hóa Lời Chúa, Đấng đã đến để loan báo sự giải thoát khỏi sự áp bức và năm hồng ân
cho mọi người (Cx Lc 4,18-19). Nhờ đức tin qua các thế kỷ, những người nam nữ
thuộc mọi lứa tuổi, và tên họ được ghi trong Sách Sự Sống (Xc Kh 7,9; 13,8), đã tuyên
xưng vẻ đẹp của sự theo Chúa Giêsu tại nơi họ được kêu gọi làm chứng về cuộc sống
Kitô của họ: trong gia đình, nghề nghiệp, trong đời sống công khai, trong việc thi
hành các đoàn sủng và sứ vụ mà họ được kêu gọi thi hành.
Nhờ đức tin cả chúng
ta cũng đang sống: để nhìn nhận Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong
lịch sử.
14. Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng
tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: ”Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức
cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến (1 Cr 13,13). Và Thánh Giacôbê Tông Đồ,
với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng: ”Hỡi
anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì?
Đức tin ấy có thể cứu họ được không? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục
và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói: ”Hãy đi bình an, hãy sưởi
ấm và ăn no” nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có
ích gì? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết.
Trái lại một người có thể nói: ”Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi
đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin
của tôi” (Gc 2,14-18).
Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả
và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức
tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có
nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt
ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người
quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của
Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những
người đang xin tình thương của chúng ta. ”Tất cả những gì các con đã làm cho một trong
những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40):
những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ
hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa
Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân
cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn
sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi ”trời mới đất mới, trong
đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13; Xc Kh 21,1).
15. Vào cuối đời, thánh Phaolô
tông đồ yêu cầu môn đệ Timôthê hãy ”tìm kiếm đức tin” (Xc 1 Tm 2,22), với cùng một
sự bền chí như hồi còn nhỏ (Xc 2 Tm 3,15). Chúng ta cảm thấy lời mời gọi này được
gửi đến mỗi người chúng ta, để không ai trong chúng ta trở nên lười biếng trong đức
tin. Đức tin là bạn đồng hành trong cuộc sống, giúp nhận thức với một cái nhìn luôn
mới mẻ về những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta. Đức tin nhắm đón nhận
những dấu chỉ thời đại trong hiện tại của lịch sử, và thúc đẩy mỗi người chúng ta
trở thành dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trong thế giới. Điều
mà thế giới ngày nay đặc biệt cần đến, đó là chứng tá đáng tin cậy của những người
được Lời Chúa soi sáng trong tâm trí, có khả năng mở tâm trí của bao nhiêu người mong
ước Thiên Chúa và sự sống chân thực, sự sống không tàn lụi.
”Ước gì Lời Chúa
hoàn tất hành trình của mình và được tôn vinh” (2 Ts 3,1): ước gì Năm Đức Tin này
làm cho quan hệ với Chúa Kitô ngày càng vững chắc hơn, vì chỉ trong Ngài mới có sự
chắc chắn để hướng nhìn về tương lai và bảo đảm một tình yêu chân thực và lâu bền.
Những lời thánh Phêrô Tông đồ chiếu dọi một tia sáng cuối cùng trên đức tin: ”Vì thế,
anh chị em tràn đầy vui mừng, cho dù hiện nay anh chị em còn phải chịu ưu sầu ít lâu,
bị nhiều thử thách, để đức tin của anh chị em được tôi luyện, quí hơn vàng, vàng là
thứ sẽ phải hư nát mà còn được thanh luyện bằng lửa, mang lại lời ngợi khen, vinh
quang và vinh dự cho anh em khi Chúa Giêsu Kitô tỏ hiện. Tuy không thấy Ngài, nhưng
anh chị em vẫn yêu mến Ngài, và tuy không thấy Ngài, anh chị em vẫn tin nơi Ngài.
Vì thế, anh chị em hãy vui mừng khôn tả và vinh quang, trong khi đạt tới mục đích
đức tin của anh chị em là ơn cứu độ các linh hồn” (1 Pr 1,6-9). Cuộc sống của các
tín hữu Kitô cảm nghiệm niềm vui và đau khổ. Bao nhiêu vị thánh đã sống nỗi cô đơn!
Bao nhiêu tín hữu, kể cả ngày nay, bị thử thách vì sự im lặng của Thiên chúa trong
khi họ muốn nghe lời an ủi của Ngài! Những thử thách của cuộc sống, trong khi giúp
hiểu mầu nhiệm Thập Giá, và tham gia vào đau khổ của Chúa Kitô (Xc Cl 1,24), là tiền
đề báo trước niềm vui và hy vọng mà đức tin dẫn đến: ”Khi tôi yếu đuối, đó là lúc
tôi mạnh mẽ” (2Cr 12,10). Chúng ta mạnh mẽ tin chắc rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng
sự ác và sự chết. Với niềm tín thác chắc chắn ấy, chúng ta tín thác nơi Ngài: Chúa
hiện diện giữa chúng ta, chiến thắng quyền lực của ác thần (Xc Lc 11,20) và Giáo Hội,
cộng đồng hữu hình của lòng từ bi Chúa, ở lại trong Chúa như dấu hiệu hòa giải chung
kết với Chúa Cha.
Chúng ta hãy phó thác thời điểm hồng phúc này cho Mẹ Thiên
Chúa, được tuyên xưng là ”người có phúc” vì Mẹ 'đã tin' (Lc 1,45).
Ban hành
tại Roma, nơi Thánh Phêrô, ngày 11 tháng 10 năm 2011, năm thứ 7 triều đại Giáo Hoàng.