... Tháng 11 năm 2009, con trai con - Stefano - bị mất việc làm, vì ảnh hưởng chung
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Lời cầu nguyện hằng ngày của con - đặc biệt
là lời kinh Mân Côi - trở nên tha thiết hơn. Con khẩn cầu Đức Mẹ MARIA giúp chúng
con chấp nhận thử thách và vượt qua giai đoạn khó khăn. Đức Mẹ đáp lời chúng con nài
van bằng cách ban cho chúng con nhiều an bình và khích lệ. Do đó, mặc dầu lo âu vẫn
còn nhưng chúng con cảm thấy thanh thản và biết rõ Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc luôn
luôn đồng hành với chúng con.
Thế rồi ngày tháng trôi qua mà việc làm vẫn
không đến. Vào một buổi chiều trong tháng 5 năm 2010, một ý tưởng bỗng xuất hiện trong
đầu. Con nghĩ đến Thánh Cả GIUSE, Vị Quan Thầy dấu ái của công nhân thợ thuyền. Con
tin vững chắc là chính Đức Mẹ MARIA nhắc con nhớ đến và kêu cầu cùng Thánh Cả. Con
tức khắc dâng lời tha thiết nài van lên Thánh Cả. Con phó thác cho Thánh Cả mọi mỗi
âu lo cũng như mọi niềm hy vọng. Con xin Thánh Cả GIUSE cầu bầu cùng THIÊN CHÚA cho
Stefano. Nhất là xin cho con trai con biết chấp nhận thánh ý THIÊN CHÚA, dù xảy ra
bất cứ chuyện gì trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Ngày hôm sau, trên đường đi làm,
con liền ghé vào một nhà thờ để lập lại lời van xin cùng Thánh Cả GIUSE. Vừa bước
vào nhà thờ, sau khi bái gối thờ lạy Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể đang ẩn mình trong Nhà
Tạm và lấy Nước Thánh làm dấu Thánh Giá, con quay người về phía bên phải thì trông
thấy một khung ảnh Thánh Cả GIUSE thật lớn. Bên cạnh Thánh Cả GIUSE có cả Hài Nhi
GIÊSU nữa. Con giật mình thảng thốt. Con có cảm tưởng như Thánh Cả GIUSE hiện ra với
con! Dưới khung ảnh có đặt một hộp đựng tiền dâng cúng với hàng chữ: ”Dâng Kính Thánh
Cả GIUSE”. Với đôi mắt đẫm lệ vì cảm động, con bỏ vào hộp một số tiền dâng cúng.
Ngày kế tiếp, con trở lại kính viếng nhà thờ và trông thấy bên dưới khung ảnh Thánh
Cả GIUSE có đặt vài tờ báo ”Thánh Chiến nhân danh Thánh Cả GIUSE”. Con liền lấy một
tờ báo và bỏ vào hộp một ít tiền dâng cúng của con. Nhờ tờ báo mà con biết Hội Đoàn
Thánh Cả GIUSE. Con liền ghi tên gia nhập Hội. Con cũng đọc trong tờ báo chứng từ
tri ân của một bà mẹ Công Giáo. Bà cảm tạ Thánh Cả GIUSE vì đã giúp cho con gái bà
tìm được việc làm. Lần này cũng thế, con có cảm tưởng như Thánh Cả GIUSE đang nói
với con.
Ngày sau đó nữa, con bị trễ mất chuyến xe car đi làm nên phải lấy
tàu lửa. Ngồi trên tàu, con đưa mắt nhìn qua cửa sổ để ngắm phong cảnh. Bỗng chốc,
con trông thấy trên tường một ngôi nhà có vẽ ảnh Thánh Cả GIUSE. Hình ảnh xuất hiện
trong nháy mắt nhưng để lại trong trái tim con một niềm trìu mến bao la của Thánh
Cả GIUSE. Lần này thì con hiểu rằng Thánh Cả GIUSE luôn tháp tùng con.
Thời
gian trôi qua cho đến giữa tháng 10 năm 2010 thì Stefano - con trai con - tìm được
việc làm.
Con tỉ mỉ kể lại những sự kiện trên đây để minh chứng rằng Thánh
Cả GIUSE luôn gần gũi và mau mắn đáp lời những ai kêu xin Thánh Cả với lòng tin tưởng
kính mến. Đó cũng là lời quả quyết của thánh nữ Têrêxa thành Avila (1515-1582), tiến
sĩ Hội Thánh. Thánh Cả GIUSE còn lưu tâm trợ giúp cách riêng giới thợ thuyền, những
người làm thuê làm mướn.
Giờ đây lời kinh con dâng lên Thánh Cả GIUSE cũng
là lời tri ân cảm tạ. Con xin Thánh Cả tiếp tục phù hộ cho công ăn việc làm của Stefano.
Với kinh nghiệm trải qua, lời cầu xin của con cũng được nới rộng. Con nhớ đến tất
cả những ai đang vất vả tìm kiếm việc làm, những người bị mất việc, những kẻ thất
nghiệp. Con trai Stefano của con cũng hiệp ý với con để cầu xin cho những ý chỉ con
vừa trình bày.
Chứng từ tri ân của một bà mẹ Công Giáo Ý.
... Kinh THÂN LẠY THÁNH CẢ GIUSE.
Con thân lạy Thánh Cả GIUSE, là bàu
chủ và là Cha kẻ đồng trinh. Bởi Thánh GIUSE giữ lòng trinh khiết,
nên đáng gìn giữ Đức Chúa KITÔ là chính sự vẹn sạch, và
Đức Nữ Đồng Trinh MARIA. Nhân vì Đức Chúa
GIÊSU và Đức Mẹ MARIA là hai của cầm châu báu của Đức Chúa CHA,
thì con nài xin gìn giữ xác con khỏi mọi bợn nhơ, trí khôn con thanh tịnh,
lòng con vẹn sạch hầu con nên trung thành tinh khiết cùng Đức
Chúa GIÊSU và Đức Mẹ MARIA cho đến muôn đời. Amen.
(”La Santa Crociata in onore di San Giuseppe”, Mensile religioso e culturale dell'Opera
Don Guanella, Anno 97, N 3, Marzo 2011, trang 17)