Giáo Hội Myanmar và công tác cứu trợ người tị nạn chiến tranh
Trong các ngày qua tin tức từ hai giáo phận Banmaw và Myitkyina bên Myanmar cho biết
đã xảy ra các vụ giao tranh dữ dội giữa quân đội chính phủ và các lực lượng du kích
Kachin đòi độc lập.
Hiện nay tổ chức Caritas Myanmar là cơ quan duy nhất đang
nỗ lực trợ giúp 20.000 người tị nạn trốn chạy các cuộc giao tranh nói trên. Các vụ
đụng độ xảy ra trong giáo phận Myitkyina, bao gồm hầu hết vùng đất của sắc tộc Kachin,
và giáo phận Banmaw. Trước thảm cảnh của người tị nạn, các linh mục, tu sĩ nam nữ
và giới trẻ của cả hai giáo phận đã lập tức huy động việc mục vụ và công tác cứu trợ
cho họ, mà không quản ngại cho chính mạng sống của mình. Một linh mục cho biết hiện
Giáo Hội đang làm tất cả những gì có thể để đưa người tị nạn tới các nơi an toàn hơn
và bảo đảm sự sống còn cho họ. Cha cám ơn tình liên đới và xin kitô hữu toàn thế giới
cầu nguyện cho Giáo Hội và nhân dân Myanmar.
Tin tức nhận được cũng cho biết
quân đội sẽ có thể tấn công cả các lực lượng thuộc sắc tộc Karen nữa. Sự ổn định và
phát triển, mà chính quyền của tướng Thien Sein hứa hẹn trong diễn văn nhận chức hồi
tháng 4 năm 2011, vẫn chỉ là lý thuyết rất xa vời đối với thực tế. Nhưng nếu chính
quyền không dàn xếp với các sắc tộc thiểu số, thì Myanmar có thể lún sâu vào một cuộc
nội chiến có các chiều kích ngày càng rộng lớn hơn, với tất cả các hậu qủa thảm khốc
cho đất nước. Ngoài ra còn có một yếu tố khác gây bất ổn đó là nạn buôn bán ma túy.
Myanmar nằm trong vùng tam giác vàng sản xuất ma túy, và các lực lượng du kích sử
dụng nó để có tiền mua khí giới đạn dược cho cuộc chiến đấu đòi độc lập của họ.
Một linh mục giáo phận Myitkyina cho biết quân chính phủ đang thực hiện một cuộc ”thanh
lọc chủng tộc” nhằm loại trừ thổ dân Kachin; và các vụ giao tranh với Lực lượng Kachin
đòi độc lập khiến cho dân chúng phải trốn chạy bạo lực. Số người tị nạn trong vùng
Myitkyina đã lên tới hơn 20.000, trong đó có 5.000 người ở tỉnh Laiza, giáp giới với
Trung Quốc, 2.000 người trong tỉnh Shwegu và hơn 10.000 người khác trong các làng
Manwing và Prang Hku Dung, và hàng ngàn người khác tản mác trốn trong rừng già.
Các cuộc giao tranh đã bắt đầu sau khi nhà nước Myanmar ký kết thỏa hiệp với chính
quyền Trung Quốc liên quan tới việc xây dựng một trung tâm thủy điện lực trên đất
của người Kachin. Dự án này sẽ gây ra lụt lội cho người Kachin sống trong các làng
mạc chung quanh, nên dân chúng đã nổi lên chống lại chương trình thủy điện lực này,
và họ đã bị quân đội đùng súng đạn uy hiếp.
Các linh mục tu sĩ giáo phận Myitkyina
đang hết sức trợ giúp dân chúng, đa số là phụ nữ người già và trẻ em, thoát ra khỏi
các vùng có giao tranh. Vị Linh mục ẩn danh nói trên cũng cho biết mỗi khi vào các
làng Kachin, binh sĩ chính quyền trả thù, giết người già và trẻ em, hãm hiếp phụ nữ,
đốt nhà cướp của, và tịch thu tài sản của dân chúng. Họ dùng mọi thứ bạo lực của chính
sách ”thanh lọc chủng tộc”. Vì thế dân chúng trốn chạy vào các vùng an toàn hơn, nhưng
họ gặp rất nhiều khó khăn vì mùa mưa đã bắt đầu. Các linh mục tu sĩ liều mình để giúp
họ và cũng có nguy cơ bị quân đội bắt giữ bất cứ lúc nào, và bị kết án là trợ giúp
các lực lượng nổi loạn. Trước áp lực quốc tế, chính quyền quân phiệt Myanmar giả bộ
hòa hoãn và muốn ngưng chiến, nhưng trên thực tế họ gửi nhiều binh sĩ và quân trang
hơn lên miền bắc, để mở cuộc tấn công cuối cùng nhằm tiêu diệt lực lượng Kachin đòi
độc lập. Trong các ngày qua tại mọi nhà thờ giáo phận Myitkyina đã có các buổi cầu
nguyện cho hòa bình.
Giáo Hội công giáo Myanmar hiện có 680.000 tín hữu trên
tổng số 50 triệu dân, trong số này có 89,4% theo Phật giáo, 5,6% theo Kitô giáo trong
đó có 1,5% công giáo, và 3,8% theo Hồi giáo. Nhân lực của Giáo Hội công giáo gồm 857
linh mục, 1.651 nữ tu, 13 tu huynh, 278 chủng sinh và 2.750 giáo lý viên.
Đa số các tín hữu kitô thuộc các bộ lạc như Kachin và Karen, trong khi bộ lạc chính
là Bamar vẫn theo Phật giáo.
Giáo Hội Myanmar có một lịch sử dài khổ đau với
nhiều thừa sai tử đạo thuộc Hội truyền giáo nước ngoài Milano gọi tắt là PIME. Vào
thế kỷ XVI có vài thừa sai người Bồ Đào Nha tìm đến rao giảng Tin Mừng tại miền nam
nước Birmania. Năm 1772 cộng cuộc truyền giáo tại Birmania do các cha dòng Barnabiti
đảm trách. Năm 1885 Giáo Hội địa phương được chia thành 3 miền và do hai hiệp hội
truyền giáo trông coi: Hội truyền giáo nước ngoài Paris, gọi tắt là MEP, đặc trách
các vùng miền bắc và miền nam; trong khi Hội truyền giáo nước ngoài Milano trông coi
miền đông, rộng bằng diện tích nước Việt Nam, và có các sắc tộc khác nhau sinh sống,
đa số theo đạo thờ vật linh.
Vào thập niên 1920 Giáo Hội mở các chủng viện
cho các chủng sinh và các tập viện đầu tiện cho các nữ tu. Song song cũng có chương
trình đào tạo các giáo lý viên và dịch các văn bản kitô ra các thứ tiếng địa phương.
Ngoài ra phong trào Công Giáo Tiến Hành cũng đã được thành lập trong thời gian này.
Vào thập niêm 1950 chỉ trong một thời gian ngắn Hội truyền giáo nước ngoài Milano
đã phải trả giá mắc mỏ vì sự hiện diện của mình tại Myanmar: đã có 5 linh mục bị sát
hại. Hai trong các vị đang có án điều tra phong chân phước: đó là linh mục Mario Vergan
và linh mục Alfredo Cremonesi.
Giữa các năm 1954-1955 Tòa Thánh cho thành
lập hàng giáo phẩm công giáo Myanmar gồm 6 giáo phận và 2 tổng giáo phận. Vị Giám
Mục bản xứ đầu tiên là Đức Cha U Kyaw, Giám Mục phụ tá giáo phận Mandalay. Vào năm
1956 Đại Hội Thánh Thể quốc gia lần đầu tiên đã được tổ chức trong thủ đô Rangoon
với sự tham dự của khoảng 50.000 tín hữu và 27 Giám Mục đến từ nhiều nước Á châu.
Năm 1960 có lễ truyền chức cho vị linh mục đầu tiên người Chin.
Ngày mùng
2 tháng 3 năm 1962 tướng Ne Win đảo chánh và lên nắm quyền. Ông giải tán các đảng
phái chính trị, hủy bỏ quyền tự do báo chí và hệ thống dân chủ và khai mào chế độ
độc tài quân phiệt. Ngày 1-4-1965 chính quyền quân đội quốc hữu hóa các trường học
và nhà thương kitô. Ngày 1-1-1966 nhà nước trục xuất mọi thừa sai ngoại quốc đã vào
Birmania sau ngày mùng 4 tháng giêng năm 1948: tất cả gồm 232 linh mục, nam nữ tu
sĩ công giáo và 18 anh chị em tin lành. Hội truyền giáo nước ngoài Milano có 60 thừa
sai Ý, thì 18 vị bị trục xuất. Năm 1983 cũng có 18 nữ tu dòng Phạt Tạ và 36 nữ tu
dòng Đức Maria Bé Thơ bị chính quyền Yangoon trục xuất. Trong cùng năm cha Clemente
Vismara mừng 50 năm linh mục và được gọi là ”tổ phụ của Giáo Hội Birmania”. Cha là
vị thửa sai kỳ cựu sống lâu năm nhất tại Birmania tất cả 65 năm và mới được phong
Chân Phước tại Milano Chúa Nhật 26-6 vừa qua.
Năm 1985 chín Giám Mục thuộc
hàng giáo phẩm được phép sang Roma viếng mộ hai thánh Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh.
Ngày 25-3-1989 Birmania được đổi tên thành Myanmar và thủ độ Rangoon trở thành Yangoon.
Năm 1991, sau 58 năm truyền giáo tại Myanmar, tu huynh Felice Tantardini qua đời và
hiện đang có án phong chân phước cho tu huynh. Năm 2002 hiệp hội Phục vụ xã hội tức
Caritas Myanmar được thành lập. Năm 2005 hội nghị mục vụ đầu tiên được tổ chức trong
thủ đô Yangoon. Năm 2007 linh mục Paolo Noè, vị thừa sai cuối cùng của Myanmar qua
đời hưởng thọ 88 tuổi.
Nếu xưa kia Myanmar là đất truyền giáo, thì ngày nay
người trẻ nước này cũng trở thành các thừa sai. Đó là trường hợp 7 người trẻ đã gia
nhập Hội truyền giáo nước ngoài Milano. Đây là hội đã đảm trách các công tác tông
đồ mục vụ trong 6 trên tổng số 16 giáo phận của Giáo Hội địa phương. Trong 140 năm
lịch sử của hội đã có 170 thừa sai được gửi tới Myanmar. Đức Cha Charles Bo, Tổng
Giám Mục Yangoon, cho biết trong vài tháng nữa Hiệp hội truyền giáo địa phương có
tên goi là ”Con đường nhỏ của thánh nữ Terexa Hài Đồng Giêsu” sẽ gửi 2 thành viên
đầu tiên sang làm việc tại Campuchia.
Hiện có ba dòng Ý hoạt động mạnh mẽ
tại Myanmar. Đó là dòng Phạt Tạ do linh mục Carlo Salerio thành lập năm 1859. Cha
là một trong các thừa sai PIME đầu tiên hoạt động tại Đại dương châu cùng với Mẹ Maria
Carolina Orsenigo. Sáu nữ tu đầu tiên của dòng đến Toungoo ngày 24-10-1895 và hoạt
động trong lãnh vực giáo dục và đào tạo nữ giới. Các chị mở 3 trường nữ: một trường
tiếng Anh, một trường tiếng Birmano và một trường tiếng Cariano. Trong các năm tiếp
theo có thêm nhiều nữ tu khác của dòng sang Birmania và yểm trợ công tác mục vụ của
các thừa sai trong các giáo xứ. Các chị sống rất gần gũi với dân chúng và cả ngày
nay nữa cũng rất được họ qúy mến.
Dòng nữ Ý thứ hai đã để lại rất nhiều dấu
vết tại Birmania là dòng Đức Maria Bé Thơ. Các nữ tu đến Kentung năm 1916, tức 4 năm
sau nhóm 3 thừa sai PIME đầu tiên. Mặc dù có nhiều khó khăn 4 nữ tu đầu tiên đã được
Saboà, là ông chúa vùng Kentung tiếp đón và sau này giao cho các chị đảm trách nhà
thương đia phương, là nhà thương duy nhất trong vùng. Các nữ tu cũng mở một trường
học và một cô nhi viện và bắt đầu săn sóc sức khỏe cho dân chúng các làng chung quanh,
chiếm được cảm tình của người dân.
Dòng tu Ý thứ ba hoạt động tại Birmania
là các nữ tu Quan Phòng, do thánh Luigi Scrosoppi thành lập tại Udine bắc Italia năm
1837. Nữ tu Sandra Del Bel Belluz, Bề trên giám tỉnh cho biết dòng bắt đầu hoạt động
năm 1912 trong vùng Kengtung. Ban đầu linh mục Bonetta xin các nữ tu dòng Đức Maria
Bé thơ Milano tới giúp. Sau đó có một nhóm các nữ giáo lý viên do các thừa sai PIME
đào tạo trợ giúp công tác giáo dục. Đến một lúc nào đó các chị được gọi là ”Nữ tử
Mẹ Maria”, cả khi cho tới lúc đó các chị là giáo dân tuy có kiểu sống giống các nữ
tu. Thế chiến thứ II đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho Giáo Hội Birmania. Vào thập
niên 1960 Đức Giám Mục Kengtung muốn thành lập một dòng nữ. Ngài quy tụ tất cả các
nữ giáo lý viện lại, cho các chị mặc áo dòng mầu xanh và gọi là các nữ tu Chúa Quan
Phòng. Đức Cha Than xin các dòng nữ giúp đào tạo giới trẻ trnog đó có dòng Chúa Quan
Phòng Italia. Vì cùng chí hướng nên năm 2002 hai dòng Chúa Quan Phòng nhập làm một.
Hiện nay cộng đoàn dòng Chúa Quan Phòng Myanmar có 70 nữ tu hoạt động rất mạnh mẽ.