... Tôi là một đứa trẻ thiếu thốn tình thương. Mẹ Cha tôi thường xuyên cãi cọ khiến
cho bầu khí gia đình luôn ngột ngạt khó thở. Do đó tôi bỏ nhà lang thang lêu lỏng
trên vĩa hè thành phố. Kết quả là tôi bị lôi cuốn vào con đường nghiện ngập ma túy,
rồi bị bắt giam. Sau 7 tháng bị tù, tôi bỏ được chứng nghiện ma túy. Nhưng tận sâu
thẳm con tim non trẻ, tôi vẫn khao khát và mơ ước tình yêu, một tình yêu chân thật
của gia đình của Mẹ Cha. Và tôi thầm mơ ước: ngày tháng trôi qua sẽ giúp tôi tìm gặp
tình thương.
Tôi may mắn tìm được việc làm với một người chủ tôi thương mến.
Ông nói với tôi là ông xem tôi như con ruột của ông. Lời thổ lộ này khiến trái tim
rướm máu của tôi được an ủi. Tôi tận lực chu toàn công việc và hoàn toàn tin tưởng
nơi ông, cho dù đồng lương không tương xứng với việc tôi làm và ông cũng không chịu
ký giao kèo nhận tôi làm người thợ thực thụ của ông. Ông giải thích sở dĩ ông phải
làm như thế là vì ông gặp khó khăn trong vấn đề tài chánh.
Cho đến một ngày,
bỗng dưng tôi bị nghỉ việc, không một lời giải thích cũng không một đồng lương bù
trừ. Tôi cầu cứu với nghiệp đoàn nhưng họ bảo là họ bất lực vì tôi không có giấy giao
kèo bảo lãnh của chủ. Và chỉ khi đó tôi mới biết rằng ông chủ của tôi là một người
bất bình thường. Trái tim rướm máu của tôi lại có dịp bị vỡ tung. Tôi đâm ra thù đời
và oán hận ông chủ. Tôi quyết định sống bằng nghề ăn trộm ăn cắp bắt đầu nơi nhà ông
chủ cũ của tôi rồi đến các nhà khàc.
Trong vòng 30 tháng trời, tức là 2 năm
rưỡi, tôi chuyên nghề ăn trộm ăn cắp. Tôi đi hết nhà này đến nhà khác, hết tiệm này
sang tiệm nọ. Tôi vơ vét của cải nhà người ta. 10 tháng đầu của nghề bất lương này,
tôi ung dung thi hành nghề nghiệp mà lương tâm không mảy may cắn rứt. Tôi xem nó như
chuyện bình thường và tin rằng phải có tiền để giải quyết tất cả. Con đường trộm cắp
thênh thang mở rộng trước mắt, tôi cứ bình thản tiếp tục!
Nhưng rồi tôi bắt
đầu bị đau khổ dằn vặt. Sau trăm ngàn vụ trộm, giờ đây tôi khó lòng vượt thoát lưới
vây bủa của công an cảnh sát. Tuy nhiên, tự bên trong một tiếng nói vang lên: ”Đâu
có ích lợi gì nếu mày ngừng tay bây giờ. Bản án tù đã treo lên rồi, không có cách
gì vượt khỏi vòng vây luật pháp, nên ngày nào còn tự do thì cứ tiếp tục nghề nghiệp
bất lương đã khởi đầu”. Nhưng cũng từ đó tôi sống trong nỗi lo sợ triền miên. Tôi
rất sợ khi chạm mặt với công an cảnh sát. Thê thảm hơn nữa là tôi không dám nhìn thẳng
mặt bất cứ người nào. Đối với tôi, bất cứ ai cũng có thể khám phá ra tôi là một tên
trộm cướp. Tôi có cảm tưởng là trên trán tôi ghi rõ những lần trộm cướp của tôi. Tôi
bỏ ăn, mất ngủ và đêm đêm tôi thức giấc vì những cơn ác mộng.
Ngày tôi bị
bắt cũng là ngày hồng phúc, chấm dứt cơn ác mộng của tôi. Tôi có cảm tưởng là mình
được giải thoát khỏi gánh nặng đang đè bẹp từ mấy chục tháng qua. Nơi bốn bức tường
nhà giam tôi bắt đầu suy tư về chặng đường vừa trải qua. Tôi ý thức rõ ràng về tất
cả những tội lỗi tôi đã phạm, cũng như những năm tháng dài từ đây tôi phải giam mình
nơi ngục tù. Trong vòng hai ngày đầu, tôi chỉ biết khóc, khóc ròng rã như một đứa
con nít. Rồi tôi đâm ra tuyệt vọng và muốn tự tử.
Trên tường phòng giam có
treo một tấm lịch Công Giáo. Không biết làm gì nên tôi đọc mấy hàng chữ ghi trên đó:
- Đức Chúa GIÊSU đến để tìm kiếm và cứu vớt những
gì bị hư mất” (Luca 19,10).
Như bị một sức mạnh vô
hình nào đó lôi cuốn, tôi quỳ xuống và nức nở cầu nguyện, không phải vì Đức Tin nhưng
vì quá tuyệt vọng. Tôi thưa với Chúa: - Nếu quả thật Chúa hiện hữu và sẵn sàng
cứu giúp những người tội lỗi hư mất, như tấm
lịch treo tường nói, thì xin Chúa hãy cho con được nhận
biết Chúa.
Lạ lùng thay, sau lời cầu xin này, lòng tôi cảm thấy một niềm
an bình bao la và một con tim hoàn toàn đổi mới.
Tôi tin mạnh mẽ là có THIÊN
CHÚA. Tôi cũng xin người canh tù cho tôi một cuốn Kinh Thánh. Rồi tôi nhớ lại tất
cả những lần tôi trộm cướp và thầm nhủ: - Tôi phải xưng thú tội
lỗi thì mới được tha thứ!
Nghĩ thế rồi tôi lấy giấy viết
thư xin lỗi tất cả những gia đình mà tôi đã ăn trộm ..
Một điều xảy ra ngoài
mức tưởng tượng của tôi là hầu hết các gia đình nhận được thư tôi, đều trả lời. Họ
cho biết những nỗi đau khổ khi bị mất tiền của. Nhưng giờ đây họ sẵn sàng tha thứ.
Có người hứa sẽ đến nhà giam thăm tôi. Người khác thì bảo tôi đến thăm họ khi nào
ra khỏi nhà tù. Tôi cảm tạ hồng ân THIÊN CHÚA đã cho tôi gặp lại Ngài và nhận lãnh
tha thứ từ những người tôi đã xúc phạm đến của cải và hạnh phúc gia đình họ.
Chứng từ của Christian tù nhân trẻ người Pháp.
... Kinh
dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ MARIA Vô Nhiễm Nguyên Tội
Lạy Mẹ MARIA Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con toàn thể giáo hữu Việt Nam hết lòng tin
cậy chạy đến cùng Mẹ. Mẹ là Mẹ THIÊN CHÚA, là Mẹ chúng con,
Mẹ là Nữ Vương Toàn Năng, là Đấng bầu cử cho chúng con trước
tòa Chúa. Biết bao nhiêu lần, Mẹ đã cứu vãn Giáo Hội, và các dân tộc
trong cơn nguy biến. Chúng con hết lòng thành kính hiến dâng Giáo
Hội và tổ quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Để thực
hành mệnh lệnh của Mẹ, và để nhờ Mẹ che chở phù trì, ngày nay và mãi
mãi. Xin Mẹ gìn giữ Giáo Hội Việt Nam. Xin Mẹ soi sáng hàng Giáo Phẩm,
dìu dắt và thánh hóa các Linh Mục. Xin Mẹ giúp sức cho toàn thể giáo dân được
trung thành giữ luật Chúa, và sốt sắng làm việc tông đồ. Xin Mẹ
nâng đỡ và ủi an những anh chị em của chúng con, đang phải khốn
khó vì Đạo Chúa. Xin Mẹ chúc lành cho tổ quốc Việt Nam. Xin
Mẹ hướng dẫn các nhà lãnh đạo dân tộc, xin Mẹ đem
tinh thần Phúc Âm thấm nhuần tất cả các cơ cấu quốc gia, xin
Mẹ cho toàn thể dân Việt biết đoàn kết, để cùng nhau xây
dựng lại giang sơn. Nhất là xin Mẹ cứu chúng con thoát nạn Cộng
Sản vô thần, để mọi người được sống trong
tự do, hòa bình, ngõ hầu Nước Chúa được mở rộng khắp
nơi. Chúng con nguyện muôn đời ghi nhớ ơn Mẹ,
và cùng nhau xây dựng một đền thờ hay một công tác nào khác dâng kính
Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, để lưu truyền cho hậu
thế ơn che chở đặc biệt của Mẹ. Lạy Mẹ MARIA
Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con thành khẩn kêu đến Mẹ, vì chúng con biết
Mẹ sẽ nhậm lời chúng con. Và mặc dầu mọi nỗi khó khăn hiện tại, chúng
con tin chắc Trái Tim Mẹ sẽ thắng. AMEN.
(Charles Lepetit, ”Mes amis
les pauvres”, Nouvelle Cité, Paris 1984, trang 42-45)