Vào thời Thánh Gioan-Maria Vianney (1786-1859) làm Cha Sở họ Ars, có một vụ quỷ ám
rất nổi tiếng tại Pháp. Nạn nhân là một nam giáo dân Công Giáo tên Antoine Gay (1790-1871).
Điều đáng nói trong cuộc đời ông Antoine Gay, là 81 tuổi thọ, nhưng ông bị ma quỷ
hành hạ đến hơn nửa đời người. Tên quỷ ám hại ông xưng là Isacaron, tướng của các
tên quỷ nhơ nhớp. Rất nhiều lần, Isacaron bị bắt buộc ca tụng quyền năng của THIÊN
CHÚA, của Đức Mẹ MARIA, của các thánh nam nữ và khuyên bảo điều lành, qua miệng ông
Antoine Gay, người bị tên quỷ ám hại.
Một ngày có người hỏi Isacaron những
phương thế nào giúp nên trọn lành, nó liền nói: - Phải hết sức gớm ghét tội trọng;
đừng chủ ý phạm tội nhẹ; luôn sống dưới cái nhìn của THIÊN CHÚA; biết hạ mình khiêm
tốn mọi ngày trong đời sống, bởi vì kiêu ngạo là tính xấu tệ hại nhất trong tất cả
các tính xấu; luôn nêu gương sáng và khuyên bảo lời tốt lành; hãm mình làm việc đền
tội như vị Thánh Tiền Hô đòi hỏi. Và ai thánh thiện rồi thì càng phải trở nên thánh
thiện hơn nữa!
Về việc suy gẫm, quỷ Isacaron nói: - Nếu các người suy
gẫm thật sốt sắng về cuộc đời của Chúa Cứu Thế và Hiền Mẫu MARIA Rất Thánh của Ngài,
thì tôi dám đánh cá với các người là các người không phạm một lỗi nhẹ chống lại THIÊN
CHÚA. Đói khát, chết chóc không là gì so với tội lỗi: chính tội lỗi mới đáng kinh
sợ!
Quỷ Isacaron nói về thánh nữ Maria Magdala, người phụ nữ tội lỗi được
Đức Chúa GIÊSU KITÔ trừ ”bảy quỷ”: - Bà Maria Magdala là vị đại thánh mà người
ta nên chạy đến kêu cầu với trọn lòng tin tưởng. Ngay sau khi được hồng phúc biết
Đức Chúa GIÊSU, lòng bà đau đớn ăn năn khôn kể xiết, nước mắt bà tuôn chảy đầm đìa
đến độ, không một tên quỷ nào có thể cám dỗ bà tái phạm tội được nữa. Bà là mẫu gương
cho những ai thật lòng ăn năn đền tội và nên kêu xin bà biện hộ bên tòa Chúa, vì Chúa
ban dồi dào ơn lành cho những ai cầu khẩn cùng bà Maria Magdala.
Về quan tổng
trấn Philatô, quỷ Isacaron nói: - Philatô là quan án biết rõ mình kết án một người
vô tội, nhưng ma quỷ đã xúi giục ông kết án Vị Thẩm Phán Tối Cao, Vị Thẩm Phán của
hết mọi thẩm phán. Chính khi lấy nước rửa tay phân trần, ông đã làm nhơ bẩn đôi bàn
tay mình!
Sau những lời khuyên nhủ và nhận xét trên đây, Isacaron, tướng của
các tên quỷ nhơ nhớp, bị bắt buộc đọc to cho mọi người nghe, lời cầu nguyện dâng lên
Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA, qua miệng của Antoine Gay, người bị hắn ám hại:
... Lạy Đức MARIA Chí Thánh, con xin dâng lên Mẹ lời cầu, với trọn
lòng tín cẩn. Mẹ chẳng từ bỏ ai, nhưng hằng tha thiết đến
phần rỗi của mọi người. THIÊN CHÚA không hề từ chối điều
gì với Mẹ khi Mẹ cầu xin cùng Ngài. Xin Mẹ hãy ôm con vào vòng tay che chở vạn
năng của Mẹ. Nếu Mẹ dủ lòng thương xót nhậm lời con khiêm tốn
cầuxin, thì toàn thể hỏa ngục cũng không thể nào làm hại được
con. Một cách nào đó, Mẹ là Bà Chủ của vận mệnh con. Vận mệnh con nằm
trong đôi bàn tay Mẹ! Nếu Mẹ bỏ rơi con, thì con sẽ bị
hư mất, không nguồn cứu giúp! Thế nhưng, Mẹ là Người
Mẹ quá tốt lành, không thể bỏ rơi những ai đặt trọn niềm
hy vọng nơi Mẹ! Xin Mẹ cầu bầu cùng THIÊN CHÚA Ba Ngôi cho
con và con tin chắc là mình sẽ được cứu rỗi! Ôi ước gì
con có quyền làm cho mọi con dân trên mặt đất này nhận biết Mẹ!
Ước gì con có thể loan báo khắp nơi sự cao cả, lòng nhân hậu
và quyền năng của Mẹ! Điều mà con không thể làm
được, con nguyện mong cho các thần trí thiên quốc làmthay. Và
ước chi chính các tên quỷ bị bó buộc phải xưng tụng rằng: ”Mẹ
là kỳ công của Bàn Tay THIÊN CHÚA, Mẹ có quyền lực THIÊN CHÚA trong tay, Mẹ thật khủng
khiếp đối với ma quỷ và mọi sự đều phục tùng Mẹ! Mẹ là
loài thọ tạo vô song! Mẹ là phụ nữ duy nhất, vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ. Mẹ
đã sinh ra Đấng Cứu Thế. Cùng với Thánh Cả GIUSE, Mẹ có chỗ
đứng riêng”. Như thế, Mẹ cao trọng hơn mọi
Thiên Thần và các thánh: Mẹ thật là Chí Thánh, là thần thiêng! Con hy vọng
nơi Mẹ và con tin chắc chắn vững vàng rằng, kể cả mọi quyền lực hỏa ngục, cũng
không thể nào chiến thắng được con! Ước gì được
như vậy. Tất cả các Thiên Thần và các thánh đồng thanh chúc tụng
Mẹ đến muôn đời! Amen! Ước gì được
như vậy!
(Monseigneur Cristiani, ”Présence de Satan dans le
monde moderne”, Editions du Parvis, 1992, trang 131-133)