... Ngày Rằm tháng Bảy năm Nhâm Tuất 1802, vua Thế Tổ Gia Long nhà Nguyễn
hạ lệnh đem tướng Trần Quang Diệu, vợ Diệu là Bùi Thị Xuân và con gái
10 tuổi là Trần Bích Xuân ra pháp trường xử quyết ..
Mấy tên
đao phủ đứng sau mẹ con Bùi Thị Xuân bắt đầu tháo gông và cởi trói cho hai người,
rồi cầm gươm dí vào cổ bắt họ quì xuống. Bùi Thị Xuân không chịu quỳ, giắt con hãnh
diện bước tới đàn voi. Con voi đầu đàn lông mầu trắng .. cặp mắt hấp him hung dữ và
cặp ngà cụt nhọn hoắt. Nó thấy mẹ con Bùi Thị Xuân ngang nhiên tiến tới, thì ngập
ngừng đứng lại rồi rợm lùi bước ..
Lúc bấy giờ Bùi Thị Xuân trông hùng dũng
và đẹp như một nữ tướng nhà trời. Con voi đầu đàn có lẽ vì thấy rờn-rợn trước vẽ uy
nghi lẫm liệt của nữ tướng họ Bùi, lùi lại hai bước. Hai tên quản-tượng lấy dùi thích
mạnh vào vế đùi voi. Voi bị đau nổi khùng tiến lên, lấy vòi quặp một lượt cả hai mẹ
con, tung bổng lên trời cao, khoảng gần ba trượng, rồi giơ cặp ngà ra hứng lấy ..
Cả hai mẹ con nữ tướng Bùi Thị Xuân rơi xuống, bầy nhầy máu toé chan hòa xuống đất.
(”Một Ngày Vu Lan Thê Thảm”, Đoàn Châu Mậu, Độc Lập, Nguyệt
San Thời Sự & Văn Nghệ Việt Nam, Năm Thứ Mười
Ba, Số 9/89, trang 25).
... Ngày 7 tháng 3 năm 203, thánh nữ
Perpêtua bị đưa ra hý trường, vì tội theo Kitô Giáo và vì cương quyết không chối
bỏ Đạo Kitô. Cùng bị đưa ra hý trường - làm mồi cho bò cái húc - có thánh nữ Phêlixita,
một nô-bộc.
Thánh nữ Perpêtua thuộc dòng quý tộc ở Bắc Phi. Gia đình thánh
nữ được hồng ân lãnh Bí Tích Rửa Tội, chỉ trừ người Cha. Năm 203, Perpêtua bị bắt
cùng với 4 tín hữu Kitô khác. Lúc đó Perpêtua là bà mẹ trẻ (22 tuổi) với đứa con dại
còn bú. Chính thánh nữ tự tay ghi lại những diễn tiến, những chiến đấu trong thời
gian bị bắt bớ và bị giam cầm.
Giữa lúc cơn bách hại các tín hữu Kitô nổi
lên dữ dội, Cha tôi thường dùng đủ mọi thứ lý lẽ cũng như tình phụ tử để thuyết phục
tôi từ bỏ ý định xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Tôi thưa với Cha: - Ba có nhìn
thấy bình cắm hoa đang để trên bàn, hoặc bức ảnh treo trên tường, hoặc bất cứ vật
dụng nào khác trong căn phòng này không? - Có, Ba thấy! - Người ta có thể
gọi chúng bằng những tên khác không? - Không! - Con cũng vậy! Con không thể
tự đặt cho mình một tên nào khác ngoài danh xưng con là KITÔ-HỮU!
Nghe tôi
trả lời thế, Ba tôi không còn tự chủ được nữa. Người nhẩy chồm đến bên tôi, như muốn
móc cặp mắt tôi. Tuy nhiên, người chỉ đấm đá tôi túi bụi rồi bỏ đi, thất bại trước
lý lẽ rành mạch của tôi. Những ngày sau đó Ba tôi lánh mặt, không thèm gặp và nói
lời nào với tôi. Tuy nhiên thái độ này đem lại cho tôi sự thanh thản, nhẹ nhàng. Tôi
được hoàn toàn bình an chuẩn bị lãnh bí tích Rửa Tội.
Và chỉ vài ngày sau,
chúng tôi bị bắt và bị tống giam trong hầm tối.
Ngục tối đối với tôi thật
vô cùng khủng khiếp. Tôi chưa bao giờ trải qua một kinh nghiệm như thế. Các tù nhân
chúng tôi bị dồn thật chặt, không chỗ trống, không ánh sáng, không khí thở. Tiền bạc
bị tước đoạt hết. Riêng tôi bị dằn vặt vì cuộc sống khốn khổ của đứa con nhỏ còn bú,
tôi mang theo với mình. Sau một thời gian vô cùng khốn khổ, hai thầy phó tế có nhiệm
vụ săn sóc chúng tôi đút lót tiền bạc nên người ta di chuyển chúng tôi đến một trại
giam khác, ít khốn cực hơn.
Một thời gian sau, có tiếng đồn chúng tôi sẽ bị
đem xử. Vừa nghe tin, thân phụ tôi tức tốc chạy đến nhà giam thăm tôi, lòng buồn sầu
vô hạn. Ba tôi tìm cách thuyết phục tôi lần cuối. Người nói với tôi: - Con ơi,
hãy thương xót Cha già. Hãy nhìn mái tóc bạc của Cha. Hãy thương đến Cha của con,
nếu Cha còn xứng đáng được con gọi là Cha. Con ơi, vì đôi bàn tay này, đôi bàn tay
từng chăm sóc cho con đạt đến nét đẹp vẹn toàn của tuổi đời con hôm nay, và vì tình
thương đặc biệt Cha dành cho con, Cha thương con hơn các anh em con, xin con đừng
làm cho Cha nên trò cười cho thiên hạ. Xin con hãy nhìn các anh em con, hãy nhìn mẹ
con và cô con, hãy nhìn đứa con nhỏ của con, nó sẽ không thể sống sót, nếu chẳng may
con có mệnh hệ nào. Xin con hãy rút lại quyết định của con, hãy từ bỏ Kitô Giáo, để
tránh cho gia đình ta khỏi rơi vào cảnh danh dự quyền hành bị phá hủy tan tành. Không
ai trong gia đình ta còn được ăn nói tự do, nếu chẳng may con bị xử tử!
Thân
phụ tôi vừa nói vừa khóc, vừa cầm hôn tay tôi, vừa sụp lạy dưới chân tôi. Trong nỗi
niềm thương đau khôn tả, Ba tôi không còn gọi tôi bằng con nữa nhưng gọi bằng Bà.
Tôi cảm thấy thương Cha vô vàn, nhưng nhất là tôi thương cho số phận của Cha, người
duy nhất trong gia đình, không chia sẻ niềm hãnh diện được tuyên xưng Đức Tin Kitô
Giáo của tôi. Tôi đành an ủi Cha già yêu dấu:
- Xin Ba hãy ngước mắt nhìn
đoạn đầu đài này. Không gì xảy ra trên đó mà không do thánh ý THIÊN CHÚA. Cha biết
rõ là định mệnh đời sống chúng ta không tùy thuộc chúng ta nhưng nằm trong tay THIÊN
CHÚA.
Nghe tôi nói như vậy, Ba tôi giận dữ bỏ ra về ..
Một ngày, chúng
tôi bị đưa ra công đường để chịu thẩm vấn. Tiếng đồn lan nhanh đến độ đã có đông người
chen chúc tham dự cuộc thẩm vấn. Khi đến lượt tôi bị gọi, tôi liền chạm trán với Ba
tôi, đang có mặt cùng với đứa con trai nhỏ của tôi. Ba tôi kéo tay tôi và nói:
- Hãy thương đến con trai của con!
Thấy thế, quan tòa nói với tôi: - Hãy
thương đến mái tóc bạc của Cha già và hãy thương đến tuổi đời non dại của con trai
ngươi. Hãy đốt hương tế hoàng đế.
Tôi trả lời: - Không, tôi không tế hoàng
đế, vì tôi là tín hữu Kitô!
Cùng lúc đó Cha tôi tiến lại gần để thuyết phục
tôi nhưng quan tòa ra lệnh đuổi Ba ra và đập mạnh vào người. Tôi nghe như tiếng đập
giáng xuống trên người tôi và cảm thấy đau nhói nơi trái tim. Tôi thật cảm thương
cho tuổi già kém may mắn của Cha tôi.
... Ngày 7-3-203 thánh nữ Perpêtua bị
đưa ra hý trường làm mồi cho bò cái húc cùng với thánh nữ Phêlixita, một người nô-lệ.
Theo tục lệ, trước khi vào hý trường, các tử tội phải khoác lên mình tấm áo của người
có nhiệm vụ tế thần. Nhưng các Kitô-hữu một mực từ chối và nói: - Sở dĩ
chúng tôi bị điệu đến
đây là vì chúng tôi cương quyết bảo vệ sự
tự do Kitô của chúng tôi, và vì chúng tôi từ chối tế thần. Mạng sống
chúng tôi đánh đổi hai quyết định này. Vậy
xin tôn trọng quyết định của chúng tôi, vì đó
cũng là điều quý vị đồng ý.
Nghe vậy, quan tòa đành phải chấp thuận.
Vào hý trường, thánh nữ Perpêtua
bị đối đầu với một con bò cái. Nó húc tung thánh nữ lên không. Thánh nữ bị rơi ngửa
xuống đất. Vừa khi có thể ngồi dậy, thánh nữ liền lấy tay kéo chiếc áo che kín một
phần thân thể bị lộ ra vì một mảnh áo bị rách đi. Tiếp đến, thánh nữ lấy kẹp, kẹp
lại mái tóc bị xõa tung. Cử chỉ kín đáo đoan trang và quý phái của thánh nữ, như muốn
nói với đám đông đang chứng kiến cuộc tử đạo của thánh nữ rằng: - Một phụ
nữ Kitô tử đạo, không nên bước
vào vinh quang Nước Trời với mái tóc xõa tung, vì đó là
dấu hiệu của tang chế!
Sửa soạn tề chỉnh xong, thánh
nữ Perpêtua bình tĩnh đứng lên. Nhìn thấy người nữ nô lệ Phêlixita bị bò húc đang
nằm sóng soài dưới đất, thánh nữ tiến lại, giơ tay cho nàng Phêlixita nắm và kéo người
nữ nô lệ đứng thẳng lên. Chứng kiến cảnh hai phụ nữ Kitô oai-dũng đứng lên, đám đông
bỗng như cảm thấy hổ thẹn thất trận trước nét đẹp anh-thư của hai phụ nữ Kitô. Họ
im lặng thán phục và những người có nhiệm vụ điều khiển cuộc hành quyết vội vàng đưa
hai phụ nữ Kitô vào cửa dành cho những người còn sống.
Tại đây, thánh nữ Perpêtua
được một tín hữu tân tòng chạy đến chăm sóc. Chính lúc này thánh nữ mới trở lại với
thực tế. Như người vừa trở về sau một thời gian xuất thần, thánh nữ ngạc nhiên nhìn
chung quanh và hỏi: - Bao giờ thì tôi mới bị đưa ra cho bò cái húc?
Và
khi được trả lời là xong rồi, thì thánh nữ không tin, cho đến khi nhìn thấy vết thương
trên mình và áo quần rách nát, lúc đó thánh nữ mới hiểu là mình đã bị bò cái húc.
Thánh nữ liền nói với người em trai đang đứng đó với tín hữu tân tòng rằng: -
Xin anh em hãy kiên vững trong Đức Tin và đừng sợ hãi gì khi nhìn thấy các tín hữu
Kitô bị hành hung như thế!
Nhưng rồi đám đông lại lên cơn điên, la ó đòi phải
dẫn các phụ nữ Kitô ra hý trường. Lần này thì thánh nữ Perpêtua thực sự nếm cái chết
đau đớn thể xác. Tên đao phủ cầm gươm tiến đến gần thánh nữ nhưng anh lúng túng vụng
về chỉ đâm vào hông. Thánh nữ Perpêtua thét lên một tiếng lớn, rồi nắm chặt tay đao
phủ, hướng tay anh cầm gươm tiến đến họng mình, đâm thẳng vào đó! Đám đông ngạc nhiên
theo dõi cử chỉ can-trường cuối cùng của người phụ nữ Kitô.
Thánh nữ
Perpêtua hùng-dũng như người đang làm chủ
tình thế, như vị anh-thư chiến
thắng, tự mình dâng hiến cuộc đời vì lý tưởng
Kitô cao cả! Thánh nữ đã chọn THIÊN CHÚA trên Cha Mẹ,
con cái, dòng tộc, gia đình cùng mọi thứ sang giàu khác!
... Khi vào nhà bà Giuđitha, mọi người đồng thanh
chúc tụng và nói với bà: ”Bà làm cho Giêrusalem hãnh diện, cho Israel vinh hiển, cho
giống nòi chúng ta được vinh dự lớn lao. Chính tay bà làm nên và thực
hiện những điều tốt lành cho nhà Israel, THIÊN CHÚA hài lòng về những
việc của bà. Xin THIÊN CHÚA toàn năng ban cho bà nhiều ơn phúc,
đến muôn thưở muôn đời” .. Bà Giuđitha tay
cầm chùm hoa sim, phân phát lá hoa cho các phụ nữ tháp tùng bà. Bà và các phụ
nữ tháp tùng đội vòng hoa kết bằng cành ôliu. Bà đi trước
toàn dân, dẫn đầu đoàn phụ nữ múa nhảy. Tất cả
đàn ông Israel mang vũ khí và đội vòng hoa đi sau, miệng
hát thánh thi. Bà Giuđitha đứng giữa con cái Israel xướng lên
bài ca tạ ơn và toàn dân họa theo. Bà cất tiếng nói: ”Hãy ca ngợi THIÊN
CHÚA của tôi, theo nhịp trống, hát lên mừng Người, rập tiếng chiêng,
trầm bổng hòa vang thánh ca cùng thánh vịnh, hãy suy tôn và cầu khẩn danh Người.
Vì THIÊN CHÚA là vị thần tiêu diệt chiến tranh, Người đặt
doanh trại ngay giữa lòng dân thánh để giải thoát tôi khỏi tay
phường bách hại” (Giuđitha 15,9-10/12-14+16,1-2).
(”Saints Anciens D'Afrique Du Nord”, Mgr VICTOR SAXER, Professeur au ”Pontificio Istituto
di Archeologia Cristiana” à Rome, Tipografia Poliglotta Vaticana, 1979, trang 39-57)