Phong trào chống Giáo Hội Công Giáo tại Đức và Italia thời Phục Hưng
Một số nhận định của ông Manuel Borutta, giáo sư sử học người Đức về các lựa chọn
chống giáo sĩ trong thời Phục Hưng của Âu châu
Trong các tháng qua Đức Thánh
Cha Biển Đức XVI đã mạnh mẽ tố cáo các vụ bách hại các tín hữu Kitô đó đây trên thế
giới, và khuynh hướng bài Kitô giáo trong chính các quốc gia âu châu có nền văn hóa
Kitô. Phong trào tục hóa và chủ trương duy đời cực đoan ngày càng lan tràn tại Âu
châu khiến cho các giới lãnh đạo chính trị của đại lục này không chỉ thờ ơ với Kitô
giáo, mà còn tìm mọi cách gạt bỏ Kitô giáo ra khỏi cuộc sống xã hội nữa. Nhân danh
nguyên tắc tách rời tôn giáo và nhà nước, họ muốn bịt miệng không cho Giáo Hội lên
tiếng về các vấn đề của con người và của xã hội. Nhân danh chủ nghĩa duy đời cực đoan
và sự tôn trọng đối với tín hữu các tôn giáo khác hay đối với những người vô tín ngưỡng,
họ cấm các ngày lễ và các biểu tượng tôn giáo trong đời sống công cộng.
Trong
diễn văn nói trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh ngày 10-1-2011 nhân dịp chúc mừng
năm mới, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã than phiền rằng tại Tây Âu hiện nay người ta
có xu hướng coi tất cả mọi tôn giáo như một nhân tố không quan trọng và xa lạ với
xã hội tân tiến. Thậm chí họ còn coi tôn giáo là một yếu tố làm mất sự ổn định, và
người ta dùng nhiều phương thế khác nhau để ngăn cản mọi ảnh hưởng của tôn giáo trong
đời sống xã hội, đến độ đòi hỏi các tín hữu Kitô không được tham chiếu các xác tín
tôn giáo và luân lý khi thi hành nghề nghiệp của họ, như buộc các bác sĩ y tá và nhân
viên y tế cũng như một số luật sư không được nại vào quyền phản kháng lương tâm.
Trong cuốn sách tựa đề ”Chống Công Giáo. Đức và Italia trong thời đấu tranh văn hóa
âu châu”, ông Manuel Borutta, giáo sư sử học người Đức tại đại học Koeln, cho rằng
các lựa chọn bài giáo sĩ trong thời Phục Hưng khá giống với các lựa chọn do thủ tướng
Otto van Bismarck của Đức đề ra. Đó là dùng các phương tiện truyền thông, chính trị
và tôn giáo để miêu tả Giáo Hội Công Giáo như là ”mọi rợ, chậm tiến và xa lạ với tinh
thần của thời tân tiến”. Đây là cuốn sách đầu tiên so sánh một cách sâu rộng cuộc
đụng độ giữa thế giới công giáo và thế giới tự do trong thế kỷ XIX tại hai nước Đức
và Italia.
Otto van BIsmarck làm thủ tướng Đức trong các năm 1871-1879, là
người đã phát động phong trào đấu tranh văn hóa ”Kulturkampf” chống Giáo Hội Công
Giáo, vì coi nó là một đe dọa đối với sự hiệp nhất của đế quốc Đức. Sau một loạt các
khiêu khích ngày càng gia tăng, sự xung khắc bùng nổ hồi tháng 7 năm 1871. Ít lâu
sau khi bộ nội vụ nhóm họp, thủ tướng Bismarck đã ra lệnh bắt giam hầu hết các Giám
Mục Phổ. Vào tháng 11 cùng năm ông cấm các Linh Mục phát biểu về các vấn đề chính
trị trong các bài giảng. Tháng 2 năm 1872 mọi trường học đều bị nhà nước kiểm soát
nghiêm ngặt. Vào tháng 6 cùng năm các tu sĩ bị sa thải, không được dậy học nữa. Vào
tháng 12 năm đó Dòng Tên bị Nhà Nước Đức hủy bỏ, và các tương quan với Tòa Thánh bị
cắt đứt. Tháng 5 năm 1873 chính quyền của thủ tướng Otto van Bismarck hạn chế sự tự
do và tự trị của các giáo phận và dòng tu toàn nước Đức. Trong các năm tiếp theo bầu
khí ít nóng bỏng hơn, dẫn đến các Luật làm hòa, được công bố giữa các năm 1876-1877.
Và biến cố Đức Lêo XIII được bầu làm Giáo Hoàng năm 1878 góp phần vào việc giảm bớt
căng thẳng trong tương quan giữa Giáo Hội và Nhà Nước.
Sau đây chúng tôi xin
gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của ông Manuel Borutta, giáo sư sử học
người Đức, về các lựa chọn chống giáo sĩ trong thời Phục Hưng của Âu châu. Giáo sư
Borutta hiện dậy môn sử ký tại đại học Koeln bên Đức.
Hỏi: Thưa
giáo sư Borutta, có thể nói rằng trong thời Phục Hưng, những
gì đạo Công Giáo tại Italia đã phải gánh chịu, cũng là
một cuộc đấu tranh văn hóa đích thực hay không?
Nhưng đây lại là điều đã luôn luôn bị ngành sử
học Italia phủ nhận hay bị lượng định trở lại,
như giáo sư khẳng định trong nghiên cứu của giáo sư?
Đáp: Vâng, nó đã là như thế. Cuộc đấu tranh văn hóa đã là một hiện tượng toàn cầu
liên quan tới nhiều vùng rộng lớn tại Âu châu cũng như bên châu Mỹ Latinh.
Phân tích cho cùng thì đó là một cuộc đụng độ liên quan tới vai trò và ý nghĩa của
tôn giáo trong thời đại tân tiến. Sự kiện cuộc đụng độ hầu như bị hoàn toàn quên lãng
tại Italia trong các chi tiết của nó, có nhiều lý do.
Một trong các lý do
đó là Vấn đề Roma, duy nhất trong thứ loại của nó, đã che lấp các vấn đề hay các biến
cố khác chung cho cả hai nước Italia và Đức. Lý do thứ hai đó là sau năm 1870 nhiều
người Italia theo khuynh hướng tự do đã củng cố sự độc lập và chuyên biệt của họ đối
với cuộc đấu tranh văn hóa Đức Phổ, để nhấn mạnh hoạt động hòa hoãn của họ. Và như
thế đấu tranh văn hóa đã bị giản lược thành một đặc tính đức phổ, nảy sinh từ một
sáng kiến cá nhân của thủ tướng Bismack, và không thể chuyển sang cho Italia như là
phạm trù được. Như thế phần đóng góp tự do cho cuộc đấu tranh văn hóa Đức và các xung
khắc có trước tại Italia đã được bỏ sang một bên.
Hỏi: Bạo lực của phong
trào chống Giáo Hội Công Giáo tại Đức có mạnh mẽ hơn là tại
Italia hay không thưa giáo sư?
Đáp: Trong cả hai nước đều đã có các cuộc
đụng độ bạo lực giữa tín hữu công giáo và những người chống công giáo. Ngoài sự kiện
trong cả hai nước đều đã xảy ra chiến tranh chống lại các quyền lực công giáo như
Áo, Pháp và Nước Tòa Thánh, và một phần chúng được hiểu như là các chiến dịch chống
công giáo. Tuy vậy, cuộc chiến đấu văn hóa đã khiến cho ít người bị chết, vì nó đã
được thực hiện trên bình diện truyền thông, chính trị và tôn giáo.
Hỏi:
Từ phía những người theo khuynh hướng tự do việc tấn công
Giáo Hội đã luôn luôn được trình bầy như là sự
cần thiết phải loại bỏ một chướng ngại ngăn cản sự hiệp
nhất của Italia, hay ngăn cản việc tân tiến hóa nước
Đức. Trái lại trong cuộc đấu tranh văn hóa Đức
thành kiến tôn giáo và sự thù nghịch đối với Giáo Hội Công Giáo
đã có sức nặng nào thưa giáo sư?
Đáp: Bên Đức việc đồng
hóa Tin Lành với quốc gia và sự tân tiến đã có vai trò quan trọng. Người ta đã có
các tâm tình mạnh mẽ chống lại Công Giáo, bắt nguồn từ thời Cải Cách. Bên Italia,
trái lại, đa số những người theo khuynh hướng tự do nhắm tới việc cải cách đạo Công
Giáo hơn là hủy bỏ nó. Họ chỉ đại điện cho một sự giải thích khác với đạo Công Giáo
và với hàng lãnh đạo Giáo Hội. Tuy nhiên, với Cánh Tả chính trị họ đã chiếm đựơc một
ảnh hưởng trên chính quyền và các đường lối chính trị cũng như trên các lực lượng
có khuynh hướng triệt để và bài tôn giáo hơn, nhất là các lực lượng duy thực nghiệm.
Và trong khung cảnh đó, thì từ khuynh hướng bài giáo sĩ người ta tiếp tục bước sang
khuynh hướng chống lại Giáo Hội Công Giáo. Sự hiếu chiến của các lực lượng cấp tiến
hướng tới chỗ chống giáo sĩ công giáo và chống lại các hình thái đặc biệt của lòng
đạo đức công giáo, chứ không chống lại giới giáo sĩ và niềm tin của các tôn giáo khác.
Trong nghĩa này, khuynh hướng bài giáo sĩ tại Italia đã là khuynh hướng chống lại
Giáo Hội Công Giáo.
Hỏi: Giáo sư đã nghiên cứu vai trò mà
giới truyền thông thời đó đã có trong việc khích động
sự thù nghịch đối với Giáo Hội Công Giáo, tại Đức
cũng như tại Italia. Đâu là các đề tài đã được
giới truyền thông sử dụng nhiều nhất?
Đáp: Giới truyền thông thời đó sử
dụng nhiều đề tài khác nhau để kích thích sự thù nghịch đối với Giáo Hội Công Giáo:
từ âm mưu xuyên quốc của các tu sĩ dòng Tên cho tới chủ trương sống ăn bám và cuộc
sống hưởng thụ của các nam tu sĩ, từ các khổ đau của các nữ tu bị nhốt trong tu viện
cho tới việc điều kiện hóa cuộc sống tinh thần của dân chúng, của nữ giới và trẻ em,
cho tới việc xưng tội như là sự vi phạm chuyện thân thiết kín đáo riêng tư của hôn
nhân và sự độc lập của gia đình. Một cách đặc biệt thích hợp với chiến dịch tạo ra
các gương mù gương xấu là các vi phạm luật độc thân của các linh mục. Nói chung Giáo
Hội được giới thiệu như là một guồng máy của lệnh truyền và vâng lời hoàn toàn hữu
hiệu. Các tu viện được miêu tả như là các tổ tội phạm và sự thối nát.
Hỏi:
Giáo sư đã phân tích việc định hướng Giáo Hội Công
Giáo tại Đức hay việc coi Công Giáo như là một yếu tố
”mọi rợ” và ”chậm tiến”, đông phương và xa lạ với tinh thần của sự tân
tiến. Làm sao có thể khẳng định được quan điểm
này, khi các vùng có truyền thống công giáo sâu đậm nhất như
Baden và Bavière ngày nay lại là các bang phát triển kỹ nghệ tân tiến và giầu
nhất nước Đức, và chắc chắn chúng cũng đã
như thế ngay hồi thế kỷ XIX?
Đáp: Thật ra, vào thế kỷ XIX
miền Nam Đức đã ít được kỹ nghệ hóa hơn miền Bắc. Tuy nhiên, các lý do sâu xa của
việc ”đông phương hóa” Giáo Hội Công Giáo tại Đức là nơi tri giác tin lành về sự khác
biệt công giáo, được cảm thấy như là một cái gì ngoại quốc và yếu kém hơn về mặt văn
hóa. Đây lá môt tri giác bắt nguồn từ các tín hữu tin lành tự coi là được soi sáng
thuộc miền Bắc nước Đức. Nó đã được óc phê bình kiểu Hegel gắn liền với chủ thuyết
thơ mộng, được những người thuộc khuynh hướng dân chủ và tự do biến thành của riêng,
và sau cùng qua nền luân lý đạo đức tin lành của Max Weber vào thế kỷ XIX nó đã bước
vào trong việc tự ý thức của óc tân tiến tây phương.
Hỏi: Giáo sư
đã viết rằng nước Thụy Sĩ là yếu tố nối liền hai cuộc
đấu tranh văn hóa: cuộc đấu tranh văn hóa
Đức với cuộc đấu tranh văn hóa Italia. Liên Bang Thụy
Sĩ đã nắm giữ vai trò nào thưa giáo sư?
Đáp: Thụy Sĩ đã
là một loại phòng thí nghiệm, qua rất nhiều tương quan cá nhân và trao đổi văn hóa
với Đức và Italia. Ý niệm về cuộc đấu tranh văn hóa nảy sinh hồi năm 1840 nhằm miêu
tả cuộc đấu tranh giữa tín hữu công giáo tự do thụy sĩ và các cơ quan trung ương Tòa
Thánh. Tại Genève, ông Cavour hồi đó còn trẻ, đã tìm ra các lý do của sự linh hứng
cho công thức ảo thuật của ông: ”Giáo Hội tự do trong quốc gia tự do”. Sau năm 1850
thẩm phán Johann Caspar Bluntschli người Zurich, cung cấp hướng đi cho các cuộc đấu
tranh văn hóa trong các vùng Baden, Bavière, Phổ và Đức nói chung.
Ông Attilio
Brunialti, học giả nghiên cứu luật người Torino và là dân biểu trong suốt 6 nhiệm
kỳ, đã lấy lại mô thức của Bluntschli của một quốc gia ”nam tính” và của một Giáo
Hội ”nữ tính”, bao hàm việc tách rời hai lãnh vực theo luật trưởng giả tách biệt nam
nữ. Nhưng nước Pháp cũng góp phần ảnh hưởng của mình, chẳng hạn với các tiểu thuyết
và các sách bài hàng giáo sĩ của Diderot, Michelet và Sue, hay với các châm biếm hài
hước của Grandville. Việc nghiêm cứu các tương quan của các cuộc đấu tranh văn hóa
của các nước khác nhau mới chỉ ở bước khởi đầu mà thôi.