Ông Gioan Ngô Kinh Hùng (1899-1986) chào đời tại tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.
Năm 1937, Nhật chiếm Thượng Hải, ông Ngô trú ẩn tại nhà người bạn là ông Nguyễn Gia
Hoàng, giáo sư Luật tại Đại học Rạng Đông. Nhờ sống trong gia đình Công Giáo nhiệt
thành, và nhất là, sau khi đọc truyện thánh nữ Teresa Hài Đồng GIÊSU, ông Ngô quyết
định theo đạo Công Giáo. Sau đó ông đưa vợ và toàn gia đình theo đạo Công Giáo. Từ
ấy, gia đình ông Ngô sống trong hòa hợp yêu thương, kính sợ THIÊN CHÚA và kính mến
Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA. Xin nhường lời cho ông Ngô Kinh Hùng nói về những buổi
lần hạt Mân Côi chung nơi gia đình.
Một buổi tối trong năm 1944 - lúc gia
đình chúng tôi đang trú ngụ tại Quế Linh - không hiểu sao tôi bỗng to tiếng với hiền
thê ngay giữa buổi lần hạt Mân Côi chung. Tôi giận dữ đứng lên, bỏ vào phòng riêng
và đóng ập cửa lại. Tôi nghĩ vợ tôi sẽ lật đật theo sau, vuốt ve chìu chuộng để tôi
hạ cơn giận! Nhưng tôi đã lầm! Vợ tôi vẫn ngồi yên không nhúc nhích tiếp tục lần hạt
Mân Côi chung với các con, xem như không có gì xảy ra! Rồi tôi nghe rõ tiếng Edouard
- đứa con trai thứ - bắt kinh đọc thay tôi. Tôi nghe Edouard nói với các em: -
Tất cả chúng ta hãy quì gối xuống cùng nhau xin Đức Bà cầu cho Ba chúng ta!
Câu nói của Edouard như gáo nước lạnh tạt vào mặt tôi. Con rồng kiêu căng lồng lộn
nổi lên trong tôi, ngay phút chốc, bị đôi chân dịu hiền của Đức Trinh Nữ Rất Thánh
MARIA đạp nằm bẹp dưới đất!
Vào cuối buổi lần hạt Mân Côi chung, tôi lặng
lẽ mở cửa phòng, trở ra nơi đọc kinh, quì vào chỗ dành cho tôi. Tôi khiêm tốn quì
gối giữa các con tôi. ”Người đứng đầu đã trở nên chót bét!”
Tối hôm ấy, tôi
học một bài học nhớ đời. Bài học có sức thay đổi tâm tính kiêu căng nóng nảy của tôi
thành hiền lành và khiêm tốn. Kể từ đó, tôi không bao giờ còn dám đùng đùng nổi giận,
lớn tiếng với vợ trong khi lần hạt Mân Côi chung với các con nữa! Đức Trinh Nữ Rất
Thánh MARIA đã chiến thắng.
Vào các buổi lần hạt Mân Côi chung trong gia đình
như thế, tôi thường lợi dụng dịp để khuyên dạy con cái. Tôi nói với các con đại ý
như sau: - Chỉ có một người cha đích thật, đó là CHA các con ngự trên Trời. Chỉ
có một người mẹ đích thật, đó là Mẹ THIÊN CHÚA. Còn Ba Má đây chỉ đại diện tạm thời
dưới đất cho Cha và Mẹ các con ở trên Trời. Ba rất cảm động về tình hiếu thảo các
con bày tỏ cùng Ba Má, nhưng các con luôn ghi khắc rằng còn có một lòng hiếu thảo
cao quí gấp bội: lòng hiếu thảo các con phải dành cho THIÊN CHÚA. Đừng đặt tin tưởng
nơi Ba Má nhưng phải đặt trọn niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA. Bởi vì, sớm muộn gì Ba
Má cũng qua đi, bỏ các con mồ côi. Nhưng THIÊN CHÚA không bao giờ bỏ rơi các con.
Đừng tự hào chúng ta là một gia đình đoàn tụ đông đúc, bởi vì, rồi sẽ có ngày, gia
đình bị phân tán, mỗi người một phương. Vậy thì, cách thế duy nhất để mãi mãi trông
thấy cảnh gia đình mình hiệp nhất, là mỗi người các con phải luôn kết hiệp mật thiết
với Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Khi ấy, dầu chúng ta đoàn tụ hay bị phân tán, bao lâu mỗi
người hiệp nhất với Đức Chúa GIÊSU KITÔ thì toàn gia đình chúng ta sẽ mãi mãi hiệp
nhất với nhau trong Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Chỉ có một phân ly đáng sợ nhất là sự phân
ly giữa Thiên Đàng và hỏa ngục. Nếu tất cả chúng ta đều thuộc về Trời Cao thì chúng
ta sẽ hiệp nhất ngay ở đời này và mãi mãi ở đời sau. Trái lại, nếu trong gia đình
có vài người thuộc về Trời Cao vài người khác thuộc về âm phủ, thì ngay ở trần gian,
mặc dầu sống đoàn tụ, chúng ta cũng bắt đầu bị phân ly rồi. Gần nhau bằng thể xác
không nghĩa lý gì. Chỉ niềm hiệp nhất thiêng liêng mới có giá trị.
...
Các môn đệ thưa với Đức Chúa GIÊSU rằng: ”Xin mời
Thầy dùng bữa”. Người nói với các ông: ”Thầy phải dùng một thứ
lương thực mà anh em không biết. Lương thực của Thầy là thi hành
ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của
Ngài. Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt sao? Nhưng
này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng
lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! Ai gặt thì lãnh tiền
công và thu hoa lợi để được sống muôn đời,
và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở
vui mừng!” (Gioan 4,31-36)
(John Ching-Hsiung Wu, ”Par-delà l'Est et
l'Ouest”, traduit de l'anglais par Franz Weyergans, Editions Casterman, 1960, trang
97-107)