Hiện tình Irak 20 năm sau chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư lần thứ nhất
Một số nhận định của Đức Cha Louis Sako, Tổng Giám Mục Kirkuk về hiện
tình Irak 20 năm sau chiến tranh với Kuweit
Trong các ngày qua, hơn một tuần
sau khi quân đội Mỹ bắt đầu được lệnh triệt thoái khỏi Irak, làn sóng khủng bố phá
hoại lại gia tăng khiến cho hơn 90 người chết và hơn 300 người bị thương vì bom nổ.
Trước việc quân đội Hoa Kỳ rút lui khỏi Irak chỉ để lại 50.000 quân để huấn luyện
cho quân đội Irak và trong thời gian chuyển tiếp, tình hình Irak xem ra ngày càng
bất ổn hơn.
Hai mươi năm đã trôi qua kể từ khi khi chiến tranh vùng Vịnh Ba
Tư lần thứ nhất bùng nổ ngày mùng 2 tháng 8 năm 1990 giữa Irak và Kuweit. Nhiều tháng
trước đó chính quyền Baghdad đã đưa ra các lời tố cáo Kuweit và đòi lại các phần đất
mà Irak coi là của mình, nhưng đã không có ai thấy trước rằng lúc 2 giờ sáng ngày
mùng 2 tháng 8 năm 1990 tổng thống Saddam Hussein ra lệnh cho quân đội Irak tiến chiếm
Kuweit và lúc 7 giờ sáng xe tăng của Irak đã tràn vào thủ đô Kuweit, khiến cho giới
lãnh đạo Kuweit phải chạy trốn. Ai Cập, Siria và A Rập Sauđi đã mạnh mẽ lên án Irak
và yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp.
Theo lời yêu cầu của vua Fahd của A Rập
Saudi, ngày mùng 8 tháng 8 năm 1990 chính quyền Hoa Kỳ gửi quân đội sang vùng Vịnh
Ba Tư. Chỉ trong vòng vài tháng Hoa Kỳ đã thực hiện công cuộc thiết lập một căn cứ
quân sự rộng lớn và quy mô nhất kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Thật thế, chiến dịch ”Thuẫn
sa mạc” đã điều động 650.000 quân thuộc 34 nước tham gia chiến tranh vùng Vịnh Ba
Tư dưới quyền điểu khiển của một bộ chỉ huy quân sự hỗn hợp.
Trong hai tháng
8 và tháng 9 năm 1990 tổng thống Saddam Hussein ra lệnh bắt giam tất cả các kiều dân
tây phương sống tại Kuweit và Irak, và dùng họ như là thuẫn bảo vệ các cứ điểm quân
sự quan trọng nhất của Irak. Sau đó Saddam Hussein cho phép một số nhân vật quan trọng
như ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kurt Waldheim, Thủ tướng Đức Willy Brandt, chính
trị gia Jesse Jackson và nhiều nhân vật khác, đưa một vài người đồng hương của họ
về nước.
Ngày mùng 7 tháng Giêng năm 1991 các lực lượng liên minh bắt đầu
các cuộc đội bom, và chính quyền Italia gửi các máy bay chiến đấu Tornado sang vùng
Vịnh Ba Tư. Hôm sau đó máy bay của đại Tá Gianmarco Bellini và đại úy Maurizio Cocciolone
bị súng phòng không Irak bắn hạ. Hai người bị bắt làm tù binh và được đưa lên truyền
hình Irak, nhưng được trả tự do ngày mùng 3 tháng 3. Liên Hiệp Quốc ra tối hậu thư
cho chính quyền Irak phải rút quân khỏi Kuweit, nếu không quân đội đồng minh sẽ tấn
công, nhưng ông Saddam Hussein đã không nhượng bộ.
Đêm 16 tháng giêng năm
1991 Hoa Kỳ và quân đội đồng minh ra lệnh tấn công. Chiến dịch ”Bão trong sa mạc”
khởi đầu khiến cho 75.000 binh sĩ Irak, 478 binh sĩ Hoa Kỳ và đồng minh tử trận. Cũng
đã có 4.000 thường dân bị thiệt mạng. Cuộc tấn công trên bộ đã chấm dứt ngày 28 tháng
hai năm 1991 và Kuweit được giải phóng. Nhưng cũng kể từ đó Irak trở thành điểm nóng
của vùng Trung Đông.
Năm 1992 chính quyền Baghdad khước từ không cho phép
các ủy viên thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc vào Irak. Liên Hiệp Quốc ra lệnh cấm
vận kinh tế Irak nghiêm ngặt khiến cho nền kinh tế nước này suy sụp và người dân Irak
gặp cảnh đói kém khó khăn. Trước cuộc khủng hoảng nhân đạo ngày càng gia tăng, năm
1995 Liên Hiệp Quốc đã giảm bớt các biện pháp trừng phạt Irak và đưa ra quyết nghị
986 với chương trình ”Đổi dầu hỏa lấy thực phẩm”, cho phép Irak xuất cảng 2 tỷ mỹ
kim dầu thô mỗi 6 tháng để có tiền mua thực phẩm và thuốc men cho dân chúng.
Tương quan giữa Irak Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh ngày càng căng thẳng. Ngày mùng
7 tháng giêng năm 2001 quân đội đồng minh tiến chiếm Irak, và cuộc chiếm đóng chấm
dứt ngày 28 tháng hai cùng năm. Ngày mùng 3 tháng 4 hai bên ngừng chiến theo nghị
quyết số 687 của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Sau đó Irak hoàn toàn bị cô lập khỏi
cộng đồng quốc tế và chịu nhiều hạn chế cho tới năm 2003. Sau vụ hai tháp song sinh
tại New York bị quân khủng bố dùng máy bay đâm vào, bị cháy và sập ngày 11 tháng 9
năm 2001, Hoa Kỳ tố cáo Irak sản xuất các vũ khí giết người hàng loạt và cộng tác
với tổ chức khủng bố Al Qaeda, cũng như vi phạm nghị quyết của Liên Hiệp Quốc. Ngày
mùng 9 tháng 3 năm 2003 mặc dù Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chống đối, Hoa Kỳ ra
lệnh tấn công Irak. Tuy các chuyên viên thanh tra đã cho biết là Irak không có các
khí giới giết người hàng loạt đó, chính quyền Hoa Kỳ vẫn nhất quyết tấn công Irak.
Trước đó nhiều lần và đặc biệt trong buổi đọc kinh Truyền Tin ngày 16 tháng 3 năm
2003, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi hòa bình cho Irak. Nhưng lời kêu gọi
của người đã không được chính quyền Hoa Kỳ lắng nghe.
Chiến dịch ”Đánh và
gây kinh hoàng” đã mở màn với các cuộc dội bom thủ đô Baghdad. Một tháng sau, ngày
mùng 9 tháng 4 binh sĩ Mỹ chiếm đóng thủ đô Baghdad, tổng thống Saddam Hussein chạy
trốn và chiến tranh kết thúc ngày mùng 1 tháng 5 sau đó. Tháng 3 năm 2004 Hội đồng
lãnh đạo lâm thời Irak đạt sự đồng thuận liên quan tới ”luật chuyển tiếp” nhằm dẫn
đưa Irak tới tình trạng ổn định và tái thiết.
Nhưng xung khắc bùng nổ trong
lòng lực lượng Shiit, có cánh tả muốn hiệp nhất với lực lượng Sunnít nổi loạn tại
Falluja. Ngày mùng 8 tháng 6 năm 2004 với nghị quyết 1546, Liên Hiệp Quốc bắt đầu
giai đoạn chuyển tiếp để thành lập chính quyền mới. Ông Iyad Allawi được chỉ định
lãnh đạo chính quyền này. Từ đó đến nay, các vụ khủng bố bằng xe bom liên tục xảy
ra ngày càng nhiều khiến cho hàng ngàn người chết và hằng trăm ngàn người phải bỏ
Irak ra nước ngoài lánh nạn.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn
một số nhận định của Đức Cha Louis Sako, Tổng Giám Mục Kirkuk về hiện tình đất nước
Irak 20 năm sau chiến tranh với Kuweit.
Hỏi: Thưa Đức
Cha, 20 năm đã trôi qua với biết bao biến cố: Irak xâm lăng Kuweit,
hai cuộc chiến tại vùng Vịnh, chế độ Saddam Hussein sụp
đổ, Hoa Kỳ xâm lăng Irak và việc chuyển tiếp chậm chạp
khó khăn hầu như không dứt hiện nay. Đức Cha có
cảm tưởng gì?
Đáp: 20 năm đã trôi qua nhưng vẫn chưa
đủ để giúp Tây Phương hiểu biết Irak là một nước tục hóa; và điều đầu tiên mà người
dân Irak mong muốn: đó là được sống như là các công dân tự do. Họ không có các mầm
giống của khuynh hướng qúa khích và chia rẽ giáo phái trong yếu tố di truyền. Ông
Saddam Hussein đã trực giác được điều này và thành lập một chính quyền đời, nhưng
rất tiếc là chính quyền ấy đã bị cụ thể hóa thành một chế độ độc tài tàn bạo, mà chúng
tôi đã phải gánh chịu.
Hỏi: Chính sự không hiểu biết này đã
là nguyên nhân của biết bao nhiêu sai lầm trong nỗ lực bình thường hóa
Irak, có phải thế không thưa Đức Cha?
Đáp: Vâng,
đúng thế. Đã hoàn toàn thiếu chiều kích văn hóa tôn trọng sự đa diện và hiểu biết
đất nước này là đất nước của một trong các dân tộc giỏi giang nhất trong vùng. Trong
các năm qua Irak đã bị thương tích bởi một chế độ độc tài đã cướp mất đi của nhân
dân mọi sự, kể cả không khí để thở. Và Irak đã bị đối xử như là một lò sản xuất ra
khuynh hướng qúa kích, nhưng thực tại của chúng tôi rất khác. Đã xảy ra một tiến trình
tồi tệ chậm và lâu dài dẫn đưa tới tình trạng ngày nay, trong đó vì lý do mâu thuẫn
Irak lại đã thực sự trở thành một vùng đất xung đột giữa các nhóm qúa khích, thường
là phát xuất từ nước ngoài.
Hỏi: Thưa Đức Cha. tiến trình
tồi tệ này đã bắt đầu khi nào?
Đáp:
Hồi năm 1990 tôi là cha xứ tại Mosul, khi xảy ra các cuộc đội bom. Cuộc dội bom đã
kéo dài một tháng trời. Sau đó, mọi sự đã thay đổi. Chính quyền Irak trở thành hung
hãn hơn đối với nhân dân. Và cuộc cấm vận cũng bắt đầu khiến cho người dân phải sống
trong cảnh thiếu thốn trong suốt 13 năm trời. Nền kinh tế suy sụp: không có điện,
không có nước. Chúng tôi có thói quen ăn bánh trắng, nhưng trong suốt thời gian này
phải ăn bánh đen, mà không biết nó chứa những gì trong ấy. Thế rồi phong trào di cư
cũng bắt đầu. Trước hết là giới trí thức, tiếp đến là thường dân. Ai di cư được là
ra đi. Và thế là tất cả đều sụp đổ. Irak đã biến thành một nhà tù khổng lồ.
Hỏi: Riêng Đức Cha, thì Đức Cha đã có kinh
nghiệm nào trong hoàn cảnh tang thương này của đất
nước Irak?
Đáp: Tôi đã có một trường học tại Mosul và suốt
ngày chúng tôi bị bắt buộc phải nghe các khẩu hiệu tuyên truyền ca tụng chế độ và
tổng thống. Đối với Kitô hữu chúng tôi, ít nhất ở bên trong nhà thờ, chúng tôi còn
có được sự tự do, nhưng giai đoạn kinh hoàng cũng bắt đầu.
Hỏi:
Đâu đã là thời gian tệ hại nhất đối với cộng đoàn kitô
của Đức Cha?
Đáp: Tôi phải nói rằng đó là
trong các năm trước đó nữa, tức trong thời Irak có chiến tranh với Iran, vì đã có
rất nhiều tín hữu kitô bị giết chết. Không có gia đình nào là không có con trai phải
chiến đấu ngoài chiến trường. Và tôi còn nhớ biết bao nhiêu đám táng tôi đã cử hành
trong thời chiến tranh.
Hỏi: Thế còn bây gìơ thì sao thưa
Đức Cha?
Đáp: Người Mỹ đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều, bằng
cách khiến cho chúng tôi có được trở lại sự tự do. Nhưng họ có thái độ thực tiễn:
họ thử một giải pháp, rồi khi thấy nó không được, họ lại thử một giải pháp khác. Sự
kiện đó là trong một đất nước như đất nước Irak, trao ban cho nó các thế quân bình
qúa tế nhị có thể trở thành một nguy cơ tàn phá. Hoa Kỳ phải hiểu rằng con đường đúng
đắn đó là con đường giáo dục. Cần phải giáo dục dân chủ cho các thế hệ trẻ, trong
khuôn khổ của một chương trình lâu dài. Và cũng cần phải đào tạo các người lãnh đạo,
vì họ cần có một người lãnh đạo mạnh mẽ.
Trong tình trạng trống rỗng quyền
bính mà chúng tôi đang sống, sự chia rẽ bè phái được củng cố mạnh. Và tôi xác tín
rằng đất nước Irak đang tiến tới tình trạng chia rẽ nội bộ trầm trọng.
Hỏi: Thời gian chuyển tiếp sẽ còn kéo dài cho tới bao giờ thưa Đức Cha?
Đáp: Nó sẽ kèo dài hàng thế hệ. Cần phải có sự thay đổi não trạng bao gồm việc
giáo dục các thế hệ. Từ chiến tranh với Iran trong các năm 1980-1988, hệ thống điện
tại Irak đã không bao giờ được tái thiết. Chúng tôi đã phải dùng các máy phát điện
riêng và bên ngoài trời nóng tới 50 độ C. Chúng tôi hy vọng tình trạng này không xảy
ra đối với cuộc sống của người dân Irak trong tương lai. (Avvenire
1-8-2010) Linh Tiến Khải