Thánh Tôma Tiến Sĩ, bậc thầy của tư tưởng và mẫu gương của việc nghiên cứu thần học
Thánh Toma thành Aquino là bậc thầy của tư tưởng và là mẫu gương của việc nghiên
cứu thần học. Qua việc học hiểu sâu rộng và tường tận triết lý của Aristotele, thánh
nhân cho thấy rằng giữa đức tin kitô và lý trí có sự hòa hơp tự nhiên. Những gì không
thích hợp được với đức tin thì không phải lý trí đích thật, và những gì ngược lại
vời lý trí thì không phải là đức tin đích thật. Qua đó thánh Toma Tiến Sĩ đã tạo ra
một tổng hợp mới tạo làm nền tảng văn hóa cho các thế kỷ sau đó.
Đức Thánh
Cha đã khẳng định như trên trước gần 30.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự
buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 2-6-2010 tại quảng trường thánh Phêrô.
Sau
mấy bài giáo lý về chức linh mục và các chuyến công du, trong bài huấn dụ Đức Thánh
Cha trở lại với đề tài chính là vài tư tưởng gia lớn của thời Trung Cổ, lần này là
gương mặt của thánh Toma Tiến Sĩ, được đề nghị với Giáo Hội như là bậc thầy của tư
tưởng và mẫu gương của việc làm thần học một cách đúng đắn. Sau thánh Agostino, thánh
Toma Tiến Sĩ đã được Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo trích dẫn nhiều nhất, đến 61
lần. Thánh nhân được gọi là ”Tiến Sĩ thiên thần”, có lẽ vì các nhân đức, nhất là vì
sự cao vượt của tư tưởng và cuộc sống trong sạch của người.
Đề cập tới tiểu
sử thánh Toma Đức Thánh Cha nói: Toma sinh giữa các năm 1224-1225 trong lâu đài của
gia đình trưởng giả giầu có tại Roccasecca, gần Aquino và đan viện Montecassino, nơi
người được cha mẹ gửi trọ học và nhận được các yếu tố đầu tiên của việc giáo huấn.
Vài năm sau đó, người được thuyên chuyển về Napoli, thủ đô của Vương quốc Sicilia,
nơi vua Philiphê đã thành lập một đại học nổi tiếng. Trong đại học này tư tưởng của
triết gia Aristotele được giảng dậy mà không bị hạn chế cấm đoán như ở các nơi khác.
Điều đáng nói là chính trong những năm theo học tại Napoli thánh Toma gia nhập Dòng
Đa Minh, được thánh Đa Minh thành lập ít năm trước đó. Nhưng khi người mặc áo thì
bị gia đình chống đối nên Toma phải trở về sống trong gia đình một thời gian.
Năm 1245 vì đã trưởng thành nên Toma có thể theo con đường ơn gọi của mình. Người
được Dòng gửi đi học thần học tại Paris dưới sự hướng dẫn của thánh Alberto Cả. Giữa
hai thầy trò nảy sinh tình bạn sâu đậm và yêu mến lòng qúy trọng nhau lớn tới độ thánh
Alberto Cả muốn Toma theo người đến Koeln bên Đức, nơi Dòng gửi thánh nhân đến để
thành lập một học viện thần học. Thế là Toma có địp tiếp xúc với các tác phẩm lớn
của triết gia Aristotele và các tác giả chú giải A rập.
Tiếp tục bài huấn
dụ Đức Thánh Cha nói: vào thời đó nền văn hóa Latinh được kích thích sâu xa bởi sự
gặp gỡ với các tác phẩm của triết gia Aristotele, đã không được biết tới cho tới thời
ấy. Đây là các tác phẩm liên quan tới sự hiểu biết thiên nhiên, các khoa học thiên
nhiên, siêu hình, linh hồn và luân lý đạo đức, giầu tin tức và trực giác xem ra có
giá trị và có sức thuyết phục. Đó đã là một quan niệm đầy đủ về thế giới được phát
triển trước và không có Chúa Kitô, nhưng chỉ với lý trí tinh tuyền, và xem ra được
áp đặt cho lý trí như là chính thị kiến, vì thế nên nó lôi cuốn người trẻ hiểu biết
triết lý này. Nhiều người hăng say tiếp nhận hành trang hiểu biết cổ xưa ấy mà không
có óc phê bình, vì xem ra nó canh tân văn hóa và mở ra các chân trời mới. Nhiều người
khác sợ rằng tư tưởng ngoại giáo của triết gia Aristotele đi ngược lại với đức tin
kitô nên khước từ học hiểu nó. Hai nền văn hóa gặp gỡ nhau: nền văn hóa tiền kitô
của Aristotele với tính cách lý sự triệt để của nó và nền văn hóa cổ điển kitô. Một
vài môi trường được hướng đẫn khước từ Aristotele, lý do cũng vì nó được giới thiệu
bởi các nhà chú giải A rập như Avicenna và Averroè. Chẳng hạn các nhà chú giải A rập
này dậy rằng con người không có trí thông minh riêng, mà chỉ có trí thông minh duy
nhất đại đồng mà thôi. Nó là bản thể tinh thần chung cho tất cả mọi người, hoạt động
trong mọi người như là bản chất duy nhất: như thế có sự truất phế bản vị con người.
Có một điểm khác nữa đáng được thảo luận đó là quan niệm thế giới vĩnh cửu như Thiên
Chúa. Và các điểm này làm nảy sinh ra các tranh luận bất tận trong thế giới đại học
và trong Giáo Hội. Nhưng triết lý của Aristotele được phổ biến giữa dân thường.
Theo học trường của thánh Alberto Cả, thánh Toma đã nắm giữ hoạt động quan trọng nền
tảng đối với lịch sử triết lý và thần học, và đối với cả lịch sử của nền văn hóa nữa.
Toma học hiểu tường tận Aristotele và các người giải thích tư tưởng của ông, dịch
ra tiếng Latinh các tác phẩm gốc tiếng Hy lạp. Và như thế người không cần phải dựa
trên các nhà chú giải A rập nữa, nhưng có thể đọc các văn bản gốc, và chú giải đa
số các tác phẩm của Aristotele, phân biệt điều có giá trị và điều đáng nghi ngờ hay
cần phải khước từ, cho thấy sự phù hợp với các dữ kiện của Mạc Khải kitô và dùng tư
tưởng của Aristotele một cách rộng rãi và sâu sắc trong việc trình bầy các tác phẩm
thần học mà thánh nhân biên soạn. Đức Thánh Cha đã nhận xét về thánh Toma như sau:
Cuối cùng, Toma thành Aquino cho thấy rằng giữa đức tin kitô và lý trí có sự hòa hơp
tự nhiên. Và công trình lớn của thánh Toma đã là trong lúc hai nền văn hóa gặp gỡ
nhau, khi xem ra đức tin phải hàng phục trước lý trí, thì thánh nhân cho thấy rằng
chúng đồng hành với nhau; những gì xem ra là lý trí nhưng không thích hợp được với
đức tin, thì không phải là lý trí thật, và những gì xem ra là đức tin, thì không phải
là đức tin thật khi nó ngược lại với lý tính đích thật. Như thế thánh nhân đã tạo
ra một tổng hợp mới tạo thành nền tảng văn hóa của các thế kỷ sau đó.
Các
khả năng trí tuệ tuyệt vời của người đã khiến cho thánh Toma được gọi về Paris để
làm giáo sư đặc trách ghế dậy thần học của Dòng. Tại đây người đã bắt đầu sáng tác
cho tới chết, và đã chú giải Kinh Thánh, chú giải các tác phẩm của triết gia Aristotele,
biên soạn các tác phẩm lớn có hệ thống trong đó có ”Tổng luận thần học”, cũng như
các khảo luận và các diễn văn liên quan tới nhiều đề tài khác nhau. Để biên soạn các
tác phẩm người có vài thư ký phụ giúp, trong đó có tu sĩ Reginaldo di Peperno, luôn
theo người và trở thành bạn thân rất tin cậy lẫn nhau. Đó là một trong các đặc tính
của các thánh: các vị vun trồng tình bạn, vì nó là một trong các biểu hiệu cao thượng
nhất của trái tim con người và có cái gì thần thiêng trong đó, như chính thánh Toma
đã giải thích trong vài câu hỏi của Tổng luận thần học, trong đó người viết: ”Lòng
mến một cách chính yếu là tình bạn của con người với Thiên Chúa, và với các kẻ thuộc
về Ngài” (II, q.23.a.1).
Tuy nhiên thánh nhân không ở lại Paris lâu. Năm 1259
người tham dự Tổng Tu Nghị Dòng Đa Minh tại Valenciennes và là thành viên của một
ủy ban thiết lập chương trình học của Dòng. Từ năm 1261 tới 1265 thánh Toma sống tại
Orvieto. Đức Giáo Hoàng Urbano IV rất qúy trọng thanh nhân nên xin người sáng tác
các văn bản phụng vụ cho lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, được thành lập sau phép lạ thánh
thẻ tại Bolsena. Thánh Toma có tâm hồn rất sùng kính Thánh Thể. Các thánh thi rất
hay đẹp mà phụng vụ Giáo Hội hát để cử hành mầu nhiệm sự hiện diện thực sự của Mình
và Máu Chúa trong Thánh Thể, bắt nguồn từ đức tin và sự khôn ngoan thần học của người.
Từ năm 1265 tới 1268 thánh Toma sống tại Roma, nơi người hướng dẫn một học viện của
Dòng và tại đây thánh nhân bắt đầu viết Khảo Luận Thần Học (x. Jean-Pierre Torrell,
Tommaso d'Aquino. L'uomo e il teologo, Casale Monf., 1994, tr. 118-184).
Đức
Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Năm 1269 người được gọi về Paris để dậy học
một thời gian nữa. Các sinh viên theo dự các lớp của người rất đông khiến giảng đường
không còn chỗ ngồi, vì sinh viên rất thích nghe người giảng dậy. Việc giải thích triết
gia Aristotele của thánh nhân không được mọi người chấp nhận, nhưng cả những người
đối kháng với thánh nhân như Goffredo di Fontaines cũng phải công nhân rằng giáo thuyết
của tu sĩ Toma cao vượt hơn các giáo thuyết khác về lợi ích, giá trị, và nó sửa sai
các giáo thuyết của tất cả mọi vị tiến sĩ khác. Để tránh cho thánh nhân khỏi rơi vào
các tranh luận, các bề trên gọi người về Napoli giúp vua Carlo I, vì nhà vua muốn
cải tổ các chương trình đại học.
Ngoài việc nghiên cứu và dậy học, thánh Toma
còn dành giờ cho việc giảng dậy dân chúng. Dân chúng rất thích đi nghe người giảng.
Thật là một ơn lớn khi các thần học gia biết nói với tín hữu một cách đơn sơ và sốt
mến. Ngoài ra thừa tác giảng dậy cũng giúp các nhà nghiên cứu thần học có được óc
thực tế mục vụ lành mạnh, và làm giầu cho các nghiên cứu của họ bằng các kích thích
sống động.
Các tháng cuối cùng trong cuộc đời thánh Toma trôi qua trong bầu
khí thần bí. Vào tháng 12 năm 1273 thánh nhân gọi tu sĩ Reginaldo đến để báo cho biết
phải ngưng mọi công việc, vì trong khi cử hành Thánh Lễ thánh nhân đã được Chúa mạc
khải và hiểu rằng những gì người đã viết cho tới nay chỉ là ”một đống rạ”. Giai thoại
này không chỉ giúp chúng ta thấy sự khiêm tốn của thánh nhân, nhưng còn cho thấy sự
kiện tất cả những gì chúng ta nghĩ hay nói về đức tin, dù có cao siêu và tinh tuyền
tới đâu đi nữa, cũng bị cao vượt một cách vô tận bởi sự cao cả và vẻ đẹp của Thiên
Chúa sẽ được mạc khải vẹn toàn cho chúng ta ở trên Trời. Vài tháng sau đó thánh Toma
qua đời khi đang trên đường sang Lyon tham dự Công Đồng Chung, do Đức Giáo Hoàng Gregorio
X triệu tập. Ngài tắt thờ tại đan viện Xitô Fossanova, sau khi nhận của ăn đàng.
Tiểu sử thánh nhân có kể rằng một buổi sáng sớm người cầu nguyện trước Thánh Giá Chúa
trong nhà nguyện thánh Nicola ở Napoli, ông từ Domenico da Caserta nghe thánh Toma
nói chuyện với Chúa và hỏi Chúa là những gì người viết về các mầu nhiệm của đức tin
kitô có đúng không, thì Chúa Giêsu trả lời: ”Toma ơi, con đã nói tốt về Ta. Đâu sẽ
là phầàn thưởng của con?” Và câu thánh Toma trả lời Chúa cũng là câu mà chúng ta là
bạn hữu và môn đệ Chúa muốn luôn nói với Ngài: ”Không gì khác ngoài Chúa ra, lậy Chúa”
(Ibid tr. 320).
Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đức
Thánh Cha mời mọi người tham dự Thánh lễ và buổi rước kiệu Mình Màu Thánh Chúa người
chủ sự chiều thứ năm hôm nay tại Roma. Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha
và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.