Lễ phụng vụ mà chúng ta mừng hôm qua quen được gọi là “Lễ Chúa Thánh
Thần hiện xuống”, hay nói tắt là “lễ Hiện xuống”. Trong nguyên ngữ Hy-lạp và
La-tinh, danh xưng là “Ngũ tuần” (Pentecostes), nghĩa là 50 ngày, bắt nguồn
từ lịch phụng vụ của người Do thái.Năm mưoi ngày sau
lễ Vượt qua tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi cảnh nô lệ
bên Ai-cập, người Do thái mừng lễ Ngũ tuần kỷ niệm việc Chúa thiết lập
giao ước trên núi Sinai. Trong Tân ước, sách Tông đồ
công vụ đã gắn biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống với lễ Ngũ tuần, diễn
ra năm mươi ngày sau khi Chúa Phục sinh. Khi chú giải đoạn
văn này, các giáo phụ đã ví biến cố như là việc
ban hành hiến chương thành lập Hội thánh, được
phái đến muôn dân, rao giảng Tin mừng qua các ngôn ngữ của các dân tộc.
Vào
lúc 10 giờ sáng chúa nhựt, đức thánh cha đã cử hành Thánh
lễ tại đền thánh Phêrô. Trong bài giảng, ngài đã giải
thích ý nghĩa của lễ Ngũ tuần qua những biểu tượng đọc
thấy trong các bài Sách Thánh, cách riêng là “lưỡi” và “lửa”. Kế
đó trong bài huấn dụ vào lúc 12 giờ trưa đọc tại cửa sổ
văn phòng, ngài nêu bật mối liên hệ giữa biến cố Ngũ tuần với đời
sống Hội thánh: việc trao ban Thánh Linh diễn ra liên tục trong đời
sống Hội thánh: nếu không có Thánh Thần thì không có Hội thánh. Và ngài cũng
lưu ý rằng biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống cũng gắn liền với lời cầu nguyện
của Hội thánh kết hiệp với Đức Maria, tại nhà Tiệc Ly cũng như
trải qua lịch sử. Trước hết kính mời quý vị theo dõi bài huấn
dụ trước khi đọc kinh kính Nữ vương thiên đàng,
Sau đó, chúng tôi sẽ tóm tắt ý tưởng chính của bài giảng Thánh
lễ.
Anh chị em thân mến
Năm mươi ngày sau lễ Phục sinh, chúng ta
mừng lễ Ngũ tuần, kính nhớ việc Chúa Thánh Thần tỏ hiện quyền năng, dưới biểu hiệu
của gió và lửa, trên các thánh tông đồ tụ họp ở nhà Tiệc Ly, khiến họ có khả năng
can đảm rao giảng Tin mừng cho muôn dân (x. Cv 2,1-13). Biến cố Ngũ tuần, được coi
như cuộc “rửa tội” của Hội thánh, không chấm dứt ở đây. Thực vậy, Hội thánh luôn sống
trong sự tuôn đổ Thánh Thần, bởi vì nếu không có Ngài thì Hội thánh sẽ kiệt lực, tựa
như một chiếc buồm mà không có gió vậy. Mầu nhiệm Ngũ tuần tái diễn cách riêng vào
một vài thời điểm đặc biệt, hoặc ở cấp địa phương hay hoàn vũ, hoặc ở cộng đoàn nhỏ
bé hay những đại hội đông đảo. Chẳng hạn như các công đồng đã có những phiên họp được
tràn đầy Chúa Thánh Thần, trong số đó phải kể đến công đồng Vaticanô II. Chúng ta
cũng có thể nhắc đến cuộc gặp gỡ đặc biệt của đức thánh cha Gioan Phaolô II với các
phong trào giáo dân diễn ra tại quảng trường này vào dịp lễ Ngũ tuần năm 1998. Hội
thánh còn nhận ra biết bao lễ Ngũ tuần khác nữa làm cho các cộng đoàn điạ phương được
sống động. Chúng ta hãy nghĩ đến các cuộc cử hành phụng vụ, cách riêng những buổi
cử hành vào những dịp đặc biệt của cộng đoàn, trong đó sức mạnh của Chúa được cảm
nhận rõ rệt qua niềm vui và phấn khởi trong các tâm hồn. Chúng ta liên tưởng đến những
buổi họp cầu nguyện, trong đó các bạn trẻ nhận rõ tiếng gọi của Chúa hãy cắm rễ sâu
trong tình thương của Ngài, kể cả qua việc dâng hiến trót đơi cho Chúa.
Vì
thế không có Hội thánh nếu không có lễ Ngũ tuần. Và tôi có thể nói thêm rằng không
có lễ Ngũ tuần mà không có đức Maria. Điều này đã xảy ra thuở ban đầu, tại nhà Tiệc
Ly, khi các môn đệ “bền tâm nhất trí cầu nguyện, cùng với vài phụ nữ và đức Maria,
thân mẫu của Chúa Giêsu và các anh em của Người( Cv 1,14). Điều này vẫn tiếp tục diễn
ra ở mọi nơi mọi thời. Tôi đã chứng kiến điều đó mới đây tại Fatima. Quả vậy, đám
đông vô kể tụ họp tại quảng trường thánh điện, nơi mà tất cả đều chung một lòng một
ý, đã cảm nghiệm điều gì? Thực là lễ Ngũ tuần mới. Ở giữa chúng ta có Đức Mẹ Maria,
thân mẫu của Chúa Giêsu. Đó cũng là cảm nghiệm tại những thánh điện lừng danh kính
Đức Mẹ - Lộđức, Guađalupê, Pompei, Loreto- , cũng như ở những ngôi đền nhó bé: ở đâu
các tín hữu tụ họp cầu nguyện cùng với đức Maria, thì Chúa ban Thánh Linh của Người
cho họ.
Các bạn thân mến, trong ngày lễ Ngũ tuần này, chúng ta cũng muốn kết
hiệp tinh thần với đức Thân mẫu của Chúa Kitô và của Hội thánh, khi khẩn cầu cuộc
đổ tràn Thánh Linh mới. Chúng ta khẩn nài cho toàn thể Hội thánh, cách riêng nhân
dịp năm linh mục, cho những người phục vụ Tin mừng, ngõ hầu sứ điệp cứu độ được loan
truyền đến hết mọi dân tộc.
Sau khi ban phép lành Toà Thánh, Đức
thánh cha nhắc đến việc phong chân phước cho chị Teresa
Nanganiello diễn ra tại Benevento (miền nam Italia) vào chiều thứ 7 vừa qua. Vị
tân chân phước là một thiếu nữ giáo dân, thuộc dòng ba Phan-sinh, sống
đời bình thường trong gia đình nông dân. Chị cố
gắng theo gương thánh Phanxicô Assisi trong việc hoạ lại cuộc
đời của Chúa Giêsu đau khổ để cầu nguyện cho các
tội nhân. Chị qua đời lúc 27 tuổi. Một ý chỉ cầu nguyện nữa nhân ngày
lễ Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu ngày 24 tháng 5 là cầu nguyện cho Giáo
hội Trung quốc, cách riêng cho sự đoàn kết hợp nhất giữa các tín hữu
trong nước cũng như với Giáo hội hoàn cầu.
Như
đã nói trên đây, trong bài giảng thánh lễ cử hành tại
đền thờ thánh Phêrô lúc 9 giờ sáng, với 30 hồng y và 50 giám mục đồng
tế, đức thánh cha đã dừng lại suy niệm ở vài biểu
tượng của lễ Ngũ tuần được thuật lại trong các bài đọc
Sách Thánh. Trước hết, việc đổ tràn Thánh Linh diễn
ra vào lúc các môn đệ hợp nhau cầu nguyện. Cần lưu ý rằng không
chỉ các môn đệ cầu nguyện mà thôi, nhưng chính Chúa Giêsu cũng
hứa sẽ cầu nguyện với họ nữa như chúng ta nghe trong bài Tin mừng:
“Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha, để Chúa Cha ban cho các con Đấng
An-ủi khác, và ngài sẽ ở lại với các con luôn mãi”. Thực vậy, ở trên trời Chúa Giêsu
tiếp tục thi hành chức vụ tư tế, chuyển cầu cho chúng ta, xin nài Chúa
Cha ban Thánh Linh cho tất cả chúng ta.
Hồng ân Thánh
Linh được ví với lưỡi và lửa. Lưỡi
tượng trưng cho các ngôn ngữ. Thánh Linh ban cho Hội thánh
được nói các ngôn ngữ của thế giới. Thánh Luca kể ra 12 ngôn ngữ như
là biểu tượng: “Rôma”, thế giới bên Tây; “người
Do thái và các tân tòng” nói lên sự hợp nhất giữa dân Israel với thế gới; “Crêta và
A-rập” đại diện cho Đông phương và Tây phương, các hải
đảo và đaị lục. Giáo hội được phái đến
tất cả mọi dân nước, vượt qua các biên cương. Tuy
nhiên, giữa muôn vàn ngôn ngữ, Hội thánh vẫn duy trì sự hợp nhất. Đây
là một đặc trưng của Hội thánh: vừa mở rộng
đến tính đa dạng, vừa bảo vệ sự hợp nhất đoàn kết.
Bước
sang biểu tượng của lửa, đức thánh cha nhắc đến
ngọn lửa ở bụi gai mà ông Moisen đã chứng kiến. Trong đời
sống thường ngày, lửa mang tính cách huỷ diệt. Điều này
cũng xảy ra trong đời sống xã hội: lửa chiến tranh tàn phá. Nhưng
lửa của Thiên Chúa thì khác: lửa bốc cháy nhưng không huỷ hoại.
Đó là ngọn lửa của tình yêu. Lửa thanh luyện khỏi những nét nhơ nhớp,
để giúp cho con người được tinh tuyền hơn,
kết hiệp thân mật với Chúa hơn. Tiếc rằng nhiều lần chúng ta
không muốn để cho lửa của Thánh Thần tác động: chúng ta
ngại ngùng hy sinh. Tuy nhiên, nếu chúng ta mạnh dạn để cho lửa của
Thánh Thần thanh tẩy thì chúng ta sẽ cảm thấy niềm vui và an bình của tình yêu đích
thực. Bình Hòa