Dân nước Zimbabwe mong muốn một tương lai tốt đep hơn
Phỏng vấn Đức Cha Dieter Scholz, Giám Mục Chinhoyi, về hiện tình chính
trị, xã hội và tôn giáo nước Zimbabwe
Hai năm đã trôi qua kể từ khi
có các vụ bầu cử tổng thống tại Zimbabwe hồi năm 2008 với các vụ bạo động khiến cho
nhiều người chết và hàng trăm người bị thương, đặc biệt là các thành phần đối lập.
Ông Robert Mugabe thuộc đảng Mặt trận thống nhất quốc gia phi châu Zimbabwe tái đắc
cử tổng thống, và ông Morgan Tsvangirai, lãnh tụ đảng đối lập Phong Trào Thay đổi
Dân Chủ, làm thủ tướng.
Zimbabwe rộng gần 391 ngàn cây sô vuông, có gần 12
triệu 600 ngàn dân, gồm 67,1% thuộc chủng tộc Shona, 13% thuộc chủng tộc Ndebele,
4,9% thuộc chủng tộc Chewa, 3,5% là người da trắng đa số gốc Anglosaxon. 11.5% còn
lại gồm người lai giống và người gốc Á châu. 62% tổng số dân Zimbabwe theo Kitô giáo,
trong đó có 10% tín hữu công giáo. Còn lại là theo đạo thờ vật linh.
Sau đây
chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Dieter Scholz, Giám
Mục Chinhoyi, về hiện tình chính trị, xã hội và tôn giáo nước Zimbabwe.
Hỏi: Thưa Đức Cha, tình trạng sống của người dân Zimbabwe
hiện nay ra sao?
Đáp: Tôi có thể nói rằng đa số người dân Zimbabwe
đã mất hy vọng nơi một sự thay đổi. Trong thập niên vừa qua họ đã hy vọng rằng các
khổ đau, đói kém, thất nghiệp, nghèo túng, bệnh tật chấm dứt, nhưng mọi chuyện vẫn
còn đó. Đã có nhiều cố gắng sửa chữa lại tình trạng thê thảm này, nhưng chúng đều
thất bại, vì lý do này hay vì lý do khác.
Hỏi: Đức Cha có
thể đơn cử vài thí dụ liên quan tới nỗi khổ đau mà dân chúng
nước này tiếp tục phải gánh chịu hay không?
Đáp: Trong cuộc
khủng hoảng kéo dài 3 tháng giữa các cuộc tổng tuyển cử hồi cuối tháng 3 năm 2008
và các cuộc bầu cử tổng thống gồm hai vòng hồi cuối tháng 6, đã có âm mưu loại bỏ
phe đối lập với chính quyền là Phong trào thay đổi dân chủ. Đã xảy ra các vụ đánh
đập, tra tấn và tàn sát, và tại Banket, một trong các giáo xứ của tôi cách Chinhoyi
20 cây số, anh Joshua Bakacheza, đặc trách giới trẻ, đã bị bắt cóc vào tháng 5. Hồi
đó anh đã phải trốn tránh chỉ vì đã là tài xế của Phong trào thay đổi dân chủ. Để
tìm ra anh, cảnh sát đã tới gặp người em trai và cho biết là có người cho em học bổng
cho tới khi nào ra trường. Tưởng thật, người em trai dùng điện thoại di động gọi cho
anh biết tin và xin anh về ký nhận học bổng. Anh ta bị bắt tại trường học, và ba tuần
sau người ta tìm thấy xác anh bị đốt và cắt chặt tại Beatrice, ở mạn nam thủ đô Harare.
Biến cố này đã khiến cho tín hữu toàn giáo phận rất đau buồn và căm phẫn, vì anh được
mọi người biết đến. Đây chỉ là một thí dụ, còn rất nhiều vụ tương tự. Có các linh
mục bị tấn công và nhà xứ bị đốt, vì bị cho là có cảm tình với phong trào dân chủ.
Chúng tôi không hiểu tại sao các khác biệt tư tưởng chính trị lại có thể thúc đẩy
người ta có các hành động tàn ác như thế. Ngoài mầu nhiệm sự dữ còn có mầu nhiệm kẻ
dữ nữa. Đó là Satan, là Luxiphe như thánh Ignatio miêu tả, nó ngồi trong cánh đồng
Babilonia triệu tập mọi qủy dữ trên thế giới, và gửi chúng đi với lệnh thi hành các
điều dữ. Trong ba tháng đó tôi đã hiểu các hình ảnh và ngôn ngữ mà thánh Ignatio đã
dùng hồi thế kỷ XVI, chúng thật hơn là điều chúng ta tưởng tượng.
Hỏi:
Tại sao Zimbabwe lại được chọn để vác thập giá
này thưa Đức Cha?
Đáp: Đây là một câu chuyện đài lắm. Như
đã biết, các người thuộc địa đã tới đây hồi thế kỷ XIX, và chiếm đất đai bằng bạo
lực, lòng ham muốn và lừa đảo. Họ đã lấy đất đai khỏi tay dân chúng, và bắt buộc dân
địa phương làm việc cho họ. Có đúng thật là các cơ cấu hạ tầng mà chúng tôi có ngày
nay là do người dân và sự hiểu biết của người thuộc địa tạo ra. Nhưng chúng đã được
thực hiện với rất nhiều tàn bạo, bất công, cả khi không được hiến pháp hóa như tại
Nam Phi, nhưng cũng đã có cảnh loại trừ và kỳ thị chủng tộc. Điều này đã đưa tới nội
chiến và sự vùng dậy của Phong trào quốc gia phi châu. Thật ra đã có hai phong trào,
và ông Mugabe đã là lãnh tụ phong trào Thống nhất quốc gia phi châu của Zimbabwe.
Du kích quân đại diện cho quyền lợi của người dân bản xứ, và quân đội chính phủ được
Nam Phi trợ giúp và có các vũ khí và kỹ thuật tối tân. Nhưng có lẽ vì thế mà sau cùng
du kích quân đã thắng, vì chiến tranh xảy ra trong rừng. Thật ra, từ khi người thực
dân hiện diện cho tới nay, vùng đất này đã không bao giờ có hòa bình. Bạo lực đã luôn
luôn hiện diện, không luôn luôn dưới hình thức vật lý, nhưng đôi khi được cơ cấu hóa
bằng các luật lệ kỳ thị, bắt buộc dân chúng sống trong cảnh nghèo túng, không có quyền
đầu phiếu. Tuy nhiên tôi lạc quan đối với tương lai, vì qua cảnh khổ đau đó người
da trắng cũng như người da đen đã thay đổi; trong nghĩa sau cuộc nội chiến hồi thập
niên 1980, nhiều người da trắng đã nói với tôi rằng chiến tranh đã giúp họ hiểu điều
thiện và các phẩm chất Kitô của người phi châu, nhất là khả năng kiên nhẫn, nhân nhượng
và tha thứ của người phi châu. Trước đó họ đã không bao giờ ý thức được điều này,
và nếu không có chiến tranh, thì họ đã không bao giờ ý thức được điều ấy. Về phía
người phi châu các phẩm chất nói trên đã khiến cho họ có thể ngăn chặn mà không để
cho thái độ kỳ thị của giới chính trị đâm rễ trong lòng dân chúng. Thực ra dân chúng
rất thân thiện đối với một số ít người da trắng còn lại tại Zimbabwe. Trong một nghĩa
nào đó, ông Mugabe là tù nhân của qúa khứ và của thế hệ của ông và ông ta đang ở vào
cuối đời. Hỏi: Như thế là Đức Cha tin
rằng có thể nhìn vào sự phục sinh của Zimbabawe với các thế hệ tương lai của
nước này?
Đáp: Vâng, tôi tin là các thế hệ tương lai sẽ
khác với thế hệ của ông Robert Mugabe. Vào thời độc lập mặc dù có chiến tranh, nhưng
người dân Zimbabwe vẫn có mức học vấn cao hơn các dân tộc phi châu vùng nam sa mạc
Sahara. Và chắc chắn là Giáo Hội và các thừa sai đã nắm giữ một vai trò quan trọng,
với các trường học mà chúng tôi đã điều hành và mở rộng cửa cho học sinh phi châu.
ông Morgan Tsvangerai đã từng là học sinh của trường Silveira House, nơi tôi đã làm
việc trong 10 năm trời. Trường này đã đào tạo các lãnh tụ nghiệp đoàn da đen đầu tiên.
Tuy không phải là tín hữu công giáo, nhưng ông Morgan có nền văn hóa Kitô. Còn đối
với tổng thống Robert Mugabe thì trường Silveira House đã như là nhà của ông trước
và sau thời chiến tranh. Ông có hai người em gái là Brigit và Sabina làm việc trong
trường, được lương bổng, có cuộc sống ổn định và được che chở. Tổng thống Mugabe đã
không quên điều đó, và ông đã tới tham dự lễ tấn phong Giám Mục của tôi với một món
qùa rất đẹp. Hồi trước thì ông hay đi tham dự thánh lễ, nhưng bây giờ thì ít hơn trước
kia. Và tôi cũng không hiểu làm sao ông có thể hòa giải trong lương tâm của ông đức
tin, đường lối chính trị và các hành động của ông. Hỏi: Trong khi
mọi sự chung quanh xem ra đã sụp đổ, Giáo Hội là một trong
các tiếng nói đối lập cuối cùng còn đứng vững.
Đức Cha có nhận xét gì về vai trò và trách nhiệm chủ chăn của
mình, là tiếng nói của những người không có tiếng nói?
Đáp: Nhiệm vụ chính của tôi là nâng đỡ các linh mục trong công việc còn khó khăn
hơn nữa của họ. Các linh mục đã trải qua một giai đoạn bị bách hại thực sự, từ khi
chúng tôi công bố thư mục vụ tựa đề ”Thiên Chúa lắng nghe tiếng kêu của những người
bị áp bức” vào dịp lễ Phục Sinh năm 2007. Sau đó chính quyền đã bách hại các linh
mục, đặc biệt trong giáo phận của tôi.
Hỏi: Bách hai như thế
nào thưa Đức Cha?
Đáp: Các vị nhận được những cú điện thoại
nặc danh, bị đe dọa và chửi bới sỉ vả từ phía một số các tín hữu công giáo có địa
vị trong xã hội. Các phụ nữ có địa vị trong giáo phận của tôi đã điện thoại cho vị
chủ tịch hội đồng mục vụ và chửi rằng: các linh mục của ông là lũ côn đồ, trôm cướp
và say rượu. Nếu họ không ngừng giảng dậy như họ đã làm, thì sẽ biết tay chúng tôi.
Đại để những lời đe dọa là như thế. Đây là một thách đố mục vụ mà chúng tôi phải đương
đầu. Phải giúp tín hữu đối chiếu lương tâm của họ với các đòi buộc của đức tin: một
đàng là các đòi hỏi của công bằng và đàng khác là kiểu họ đã ủng hộ các biến cố xảy
ra trong thời gian từ tháng 3 tới tháng 6 năm 2008, đồng thời là cung cách tham dự
thánh lễ và đeo các biểu tượng tôn giáo. Cho tới nay vì tình hình căng thẳng và các
đe dọa liên tục xảy ra trong cộng đoàn Kitô cũng như cộng đoàn xã hội nói chung, chúng
tôi chưa thực hiện được điều này.
Vì thế nhiệm vụ đầu tiên của tôi là nâng
đỡ các linh mục, đặc biệt là các linh mục đã phải chạy trốn khỏi giáo xứ của mình.
Tôi đã cho các vị trú ngụ tại tòa giám mục hay tại trung tâm mục vụ giáo phận để bảo
đảm an ninh cho các vị. Tôi đã gửi một vị sang Anh quốc để nghỉ ngơi dưỡng sức một
thời gian, và trong các tuần tới sẽ có thêm hai vị khác nữa.
Hỏi:
Như thế có nghĩa là các linh mục của Đức Cha có vấn đề
bị kiệt lực?
Đáp: Vâng, các vị bị kiệt sức trên bình diện vật lý,
cảm xúc và tâm lý. Thật khó mà có thể tưởng tượng ra xã hội đóng kín tại Zimbabwe,
nơi tình trạng vô pháp luật ngự trị. Nếu có ai bị tấn kích bằng lời nói hay các hành
động bạo lực mà có đi tố cáo với cảnh sát, thì liền bị bắt vì tội phá rối trị an và
gây hấn. Vì thế nhiệm vụ Giám Mục của tôi là nâng đỡ các linh mục và nâng đỡ tín hữu
trong các chuyến viếng thăm trong giáo phận bao gồm toàn miền bắc và đông bắc Zimbabwe.
Tôi tìm cách khơi dậy đức tin nơi họ trong các lần đi ban Bí Tích Thêm Sức, và thật
là dịp tuyệt vời khi nói với họ về các ơn của Chúa Thánh Thần: ơn an ủi, ơn đức tin,
ơn đức cậy. Và từ gương sống đức tin Kitô trong các khổ đau của họ tôi nhận được nhiều
hơn là điều tôi có thể cho họ với các lời nói của tôi. Tôi tin rằng sự bách hại khơi
dậy cái tồi tệ nhất nơi những kẻ bách hại, nhưng cũng khơi dậy điều tốt đẹp nhất nơi
các tín hữu bị bách hại.
Hỏi: Cùng với các Giám Mục khác Đức
Cha đã nói tới tình trạng tồi tệ của Zimbabwe một cách công khai, đặc
biệt là qua việc công bố thư mục vụ chung. Đức Cha không
sợ hãi sao?
Đáp: Đối với tôi thì không có vấn đề, một phần vì trong thời
chiến tranh tôi đã cộng tác với Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Đồng Giám Mục Zimbabwe,
cùng với Đức Cha Lamont là chủ tịch và ba vị khác nữa. Tôi đã bị bắt, bị bỏ tù và
bị trục xuất. Hồi đó chúng tôi đã nói lên sự thật, và bây giờ chúng tôi cũng phải
nói lên sự thật, và đó là điều chúng tôi đã làm trong thư mục vụ.
Và bằng
chứng là chính quyền đã rất giận dữ. Bây gìơ cũng thế, mỗi khi chúng tôi gặp các giới
chức chính quyền họ đều nhắc đến ”bức thư mục vụ” ấy, mặc dù chúng tôi đã viết nhiều
thư mục vụ khác nữa. Nhưng đó là nhiệm vụ của chúng tôi: nâng đỡ hàng giáo sĩ, sống
với người dân, đồng hành với họ trong các giờ phút đen tối này của lịch sử đất nước,
và thi hành vai trò ngôn sứ, nói lên sự thật.
Hỏi: Đức Cha
có cảm thầy rằng dân nước Zimbabwe bị cộng đồng thế giới
bỏ quên hay không?
Đáp: Không. Chúng tôi không cảm thấy mình bị
bỏ quên. Chúng tôi đã nhận được sự ủng hộ từ khắp nơi trên thế giới qua các điện thư,
qua thư viết tay, và các qùa tặng lớn nhỏ, đặc biệt trong các tháng bầu cử hồi năm
2008.
Giáo phận của chúng tôi có 5 nhà thương. Những người bị cảnh sát đánh
trọng thương trong các vụ đụng độ đã tìm đến các nhà thương công giáo để được săn
sóc băng bó. Ban đầu họ từ chối, nhưng sau cùng họ đến với các vết thương lớn. Chúng
tôi đã không có đủ thuốc men, nhưng hiện nay cha Halamba đã tới với nhân viên của
tổ chức Trợ Giúp các Giáo Hội đau khổ, và sau khi nghe tôi trình bầy tình hình, chỉ
trong vòng vài ngày tổ chức đã cung cấp cho các nhà thương rất nhiều thuốc men.
Hỏi: Đức Cha có tức giận vì những chuyện xảy ra cho dân nước
Zimbabwe hay không? Và Đức Cha muốn kêu gọi điều gì cho dân nước
Zimbabwe?
Đáp: Tôi cũng có tức giận, vì thấy xảy ra qua nhiều bạo
lực bất công vô lý. Những khi đó tôi lui vào nhà nguyện và đợi cho cơn giận qua đi.
Nhưng nếu không có công lý, thì sẽ không có hòa bình và hòa giải. Và cũng không thể
hòa giải nếu không thừa nhận và tôn trọng sự thật.
Tôi muốn xin mọi người
cầu nguyện cho dân nước Zimbabwe được hòa bình, cho những người đã thất cử cũng như
những người đã thắng cử biết nghĩ tới công ích, vì người dân đã qúa mệt mỏi, đói khổ,
không công ăn việc làm, không có đủ trường học và nhà thương, và họ mong muốn có sự
thay đổi để có cuộc sống tốt đẹp hơn.