Mấy thập niên sau ngày đệ nhị thế chiến (1939-1945) chấm dứt, với cuộc diệt chủng
kinh hoàng người Do Thái, ông Tom Veres - một người Do Thái sống sót - gợi lại khuôn
mặt ông Raoul Wallenberg vị anh hùng Thụy Điển.
... Tôi gặp
Raoul lần đầu tiên ngày 17-10-1944. Vào thời kỳ ấy, bọn đức quốc xã đã càn quét khoảng
430 ngàn người Do thái sống tại Hungari và đang chuẩn bị cuộc lùng bắt đại quy mô
người Do Thái ở các thành phố lớn của Âu Châu trong đó có Budapest.
Năm ấy, Raoul Wallenberg là kỹ sư trẻ tuổi Thụy Điển. Anh được gửi đến làm việc tại
sứ quán Thụy Điển ở thủ đô Hungari chỉ với mục đích là cứu thoát người Do Thái sinh
sống tại đây. Raoul không phải nhà ngoại giao nên lợi khí duy nhất của anh là trí
thông minh sắc sảo, tính cương quyết và ý thức cao độ về giá trị của mỗi sinh mạng
con người, đến nỗi anh có thể liều chết để cứu sống người khác.
Tôi
là nhiếp ảnh viên. Thân phụ tôi cũng là nhiếp ảnh viên. Chính Cha tôi truyền nghề
cho tôi. Cha tôi từng là nhiếp ảnh viên chính thức tại triều đình Habsbourg. Nhờ đó
mạng sống gia đình Do Thái chúng tôi không lâm nguy. Nhưng ngày 15-10-1944, khi bọn
quốc xã Hungari (Croix-Fléchées) lên nắm quyền, tình trạng người Do Thái tại Hungari
thật thê thảm.
Hai ngày sau, tôi lẻn vào đám đông đang tụ tập tại
khuôn viên sứ quán Thụy Điển và gặp được viên chức ngoại giao quen biết của gia đình.
Ông nói nhỏ vào tai:
- Tôi sẽ giới thiệu anh với một người đáng tin cậy.
Nói
xong ông liền gọi:
- Raoul!
Tức khắc, một người đàn ông trẻ
trạc tuổi ba mươi, dong dỏng cao, xuất hiện. Anh có đáng điệu thật trầm tĩnh, cương
quyết, trong một thế giới đang cuồng loạn, chết chóc.
Người đó là
Raoul Wallenberg. Viên chức ngoại giao nói với Raoul:
- Tôi xin giới thiệu
với anh, đây là Tom Veres, nhiếp ảnh viên quen biết của sứ quán. Anh ta có thể giúp
đỡ chúng ta nhiều điều.
Raoul nói ngay:
- Vậy thì anh là nhiếp
ảnh viên của tôi!
Tôi bắt tay ngay vào việc. Tôi chụp hình căn cước
để dán lên thẻ thông hành mà Wallenberg cấp cho hàng ngàn người Do Thái. Đây là tấm
thẻ ghi nhận người mang nó được quyền cư trú tại Thụy Điển và được chính quyền Thụy
Điển bảo trợ.
Mãi một tháng sau tôi mới biết rõ thế nào là làm nhiếp
ảnh viên cho Wallenberg. Ngày 28-11-1944, tôi được lệnh mang theo máy ảnh và ra ngay
nhà ga Jozsefvárosi. Đến nơi, tôi trông thấy đông đảo bọn quốc xã Hungari và cảnh
binh. Người ta đang tống khứ hàng ngàn người Do Thái vào các toa xe lửa chở hàng.
Wallenberg đang có mặt tại đây. Vừa thấy tôi, anh đến gần và nói:
- Anh chụp
hình càng nhiều càng tốt.
Mặc dầu biết rõ hiểm nguy nhưng tôi tuân
lệnh, tận dụng mọi khả năng khéo léo nhất. Trong khi đó Wallenberg lấy sổ ra rồi hô
to:
- Tất cả những ai đã ghi tên nơi sứ quán Thụy Điển rồi, xin ra đứng xếp
hàng ở đây, và đưa cho tôi xem thẻ thông hành của quý vị.
Nói xong,
anh tiến lại gần người đứng hàng đầu và nói:
- Tôi có tên của ông. Xin đưa
tôi xem thẻ thông hành của ông.
Người đàn ông đáng thương - không
hiểu ất giáp gì - lục lội trong túi áo rồi đổ tung xách hành lý để tìm. Bỗng ông đưa
ra một bức thư. Wallenberg nói nhanh:
- Tốt lắm! Bây giờ đến lượt người đứng
sau.
Thế là mọi người hiểu ngay chiến thuật của anh. Họ đưa bất cứ
tờ giấy nào: thư từ, toa thuốc, kể cả lệnh phát lưu cũng trở thành tấm thông hành
cứu mạng. Cứ thế Wallenberg gọi và ghi tên hàng trăm người Do thái.
Nhưng rồi đoán biết bọn quốc xã Hungari bắt đầu sốt ruột, anh liền ra lệnh cho những
ai anh đã ghi tên:
- Bây giờ tất cả hãy trở lại Budapest!
Đoàn người Do Thái có thẻ thông hành Thụy Điển tự do sung sướng trở lại thủ đô.
Ngày hôm sau chúng tôi lại được tin nhóm Do Thái thứ hai bị phát lưu và đang ở nhà
ga Jozsefvárosi. Chúng tôi vội vã đến nơi. Và cảnh tượng ngày hôm trước tái diễn.
Raoul Wallenberg cố gắng phát thẻ thông hành Thụy Điển cho người Do Thái sắp bị lưu
đày càng nhiều càng tốt.
Lần cuối cùng tôi gặp Raoul Wallenberg là
ngày 17-1-1945. Hôm ấy Raoul ngỏ ý muốn tôi tháp tùng anh về thành phố Debrecen để
bàn thảo với chính phủ lâm thời vài vấn đề. Nhưng tôi từ chối vì muốn dò la tin tức
của Cha Mẹ tôi. Lần đó anh Raoul Wallenberg ra đi và không bao giờ trở lại. Anh bị
bọn mật vụ Nga thủ tiêu.
Định mệnh muốn cho tôi không tháp tùng anh
để sống đến ngày hôm nay và công bố những hành động can đảm của một vị anh hùng Thụy
Điển, liều chết để cứu sống người khác, bất kể người đó là ai, vì tất cả đều là anh
chị em, con cùng THIÊN CHÚA là CHA.
... ”Nòi giống nào đáng
trọng? Thưa nòi giống con người. Nòi giống
nào đáng trọng? Thưa những người kính sợ THIÊN
CHÚA .. Kẻ giàu, người sang cũng như kẻ nghèo: niềm hãnh
diện của TẤT CẢ là kính sợ THIÊN CHÚA. Khinh dể một người nghèo thông
minh là không phải lẽ, tôn vinh một người tội lỗi là điều
chẳng nên. Người làm lớn, nhà lãnh đạo, vị nắm quyền
đều được tôn vinh, nhưng không ai trong các vị
đó lớn hơn người kính sợ THIÊN CHÚA” (Sách Huấn Ca 10, 19-24).