... Trong danh sách 24 Anh Hùng Tử Đạo ngã gục dưới lưỡi gươm ác nghiệt của vua chúa
Đại Hàn vào năm 1866 có thánh Phêrô Trung.
Phêrô Trung là thứ nam của
một gia đình Công Giáo đạo đức gồm 4 người con. Năm 20 tuổi, Trung theo giúp thầy
phó tế Anrê Kim, sau này là Linh Mục đầu tiên người Đại Hàn. Năm đó - 1840 - thầy
Kim từ Macao trở về nước. Thầy chuẩn bị một chiếc thuyền để bí mật sang Trung Quốc
rước một Giám Mục và một Linh Mục thừa sai người Pháp vào Triều Tiên. Trung cùng đi
với thầy Kim và 6 tín hữu Công Giáo khác. Trên đường về, thuyền bị sóng to gió lớn
đập gãy cánh buồm. Các tín hữu sợ hãi kêu khóc nhưng anh Phêrô Trung đứng lên và nói
lớn tiếng: - Tại sao anh em lại kêu khóc như vậy? Đức Mẹ MARIA đang có mặt tại
đây mà! Sáng mai, lúc 10 giờ, chính mắt anh em sẽ trông thấy đất nước Đại Hàn.
Và đúng như lời anh Trung tiên báo, sáng hôm sau 12-10, thuyền cập bến bằng an sau
42 ngày đêm vượt trùng dương.
Từ đó anh Phêrô Trung theo giúp Cha Anrê Kim
cho đến năm 1846 Cha Kim bị bắt và bị giết vì Đạo Công Giáo. Lúc đó anh Trung đã 36
tuổi và vẫn chưa lập gia đình. Anh rất muốn sống độc thân nhưng hoàn cảnh không cho
phép nên anh phải lấy vợ và mua nhà sống tại thủ đô Hán Thành.
Ông Phêrô Trung
mở một tiệm nhỏ đồng thời sao chép các sách đạo, thu góp các tràng chuỗi Mân Côi và
tiếp đón các người ngoại giáo hay tân tòng muốn gặp và bàn chuyện với ông.
Thấy ảnh hưởng sâu rộng của ông, Đức Giám Mục giao cho ông nhiệm vụ rửa tội cho tân
tòng và nhờ ông mở một nhà in để in và xuất bản sách báo đạo. Nhiệm vụ vô cùng khó
khăn trong thời kỳ Đạo Công Giáo tại Đại Hàn bị bắt bớ. Nhưng ông Trung can đảm nhận
lời. Từ nhà in này đã phổ biến rất nhiều sách báo Công Giáo. Sau đó vì có người tố
cáo nên ông Trung bị bắt.
Trước tòa, quan án muốn biết ông Trung theo Đạo
từ khi nào và nhận lệnh của ai để in các sách báo đạo. Ông trả lời: - Tôi theo
Đạo từ nhỏ và theo lệnh của Đức Giám Mục, tôi in các sách báo này.
Quan lại
hỏi: - Ông làm để kiếm ăn hay còn có chủ ý nào khác?
Ông Trung trả lời:
- Dĩ nhiên tôi làm nghề này để có tiền nuôi sống gia đình nhưng cùng lúc tôi cũng
có ý đem nhiều người theo Đạo Công Giáo.
Quan nói lớn: - Ông đã phạm một
tội đáng phải chết!
Ông Phêrô Trung bình tĩnh đáp: - Trước
mặt THIÊN CHÚA tôi vô tội. Nhưng vì tôi làm một việc bị
luật nước cấm, nên cứ xử tôi theo luật này.
Ngày 9-3-1866 bộ Hình Luật phổ biến thông cáo kết tội ông Phêrô Trung: - Ông này
lầm lạc đi theo Đạo tây phương, lại in và phổ biến sách xấu, gây hoang mang. Tâm hồn
ông bị bùa mê, thân xác ông bị nhiễm độc. Mặc dầu bị đánh đập tàn nhẫn, lòng ông vẫn
cứng đơ như sắt như đá. Ông không ngừng tuyên xưng sự thật và chấp nhận cái chết.
Theo luật thì ông phải chết.
Hai hôm sau, ngày 11-3-1866 ông
Phêrô Trung bị chém đầu.
... Thánh Alexis Uông là con của một gia đình
giàu có trí thức và ngoại giáo Triều Tiên.
Năm 16 tuổi, Uông nghe nói đến
Đạo Công Giáo do một thầy giảng tên Kim. Uông bỗng yêu mến Đạo và muốn theo Đạo. Cậu
xin phép thân phụ lên thủ đô Hán Thành để lãnh bí tích Rửa Tội. Nhưng cả gia đình
chống đối. Thấy thế, cậu trốn lên thủ đô và xin trọ tại nhà thầy giảng Marcô Thiên.
Tại đây cậu được chính Đức Cha Siméon-Francois Berneux (1814-1866) - Giám Quản Tông
Tòa giáo phận Séoul - rửa tội. Đức Cha khuyên cậu: - Con hãy nhớ
là con đã trở thành con cái THIÊN CHÚA. Từ đây con hãy
từ bỏ ma quỷ và hãy phục vụ một mình THIÊN CHÚA. Con hãy cố gắng thông chia hạnh phúc
của con cho Ba Má con.
Đó là năm 1863.
Anh Alexis Uông trở
về gia đình. Anh được Cha Mẹ và gia đình tiếp đón cách lạnh lùng. Anh đặc biệt đau
khổ về sự ruồng rẩy của thân phụ và người anh cả. Sợ bị ngã lòng bỏ Đạo, anh xin thân
phụ cho phép trở lại thủ đô. Cha anh nói thẳng thừng: - Càng tốt! Mày nên ra khỏi
nhà càng sớm càng hay!
Uông lên thủ đô trọ tại nhà cụ già Marcô Thiên. Anh
sống những ngày ẩn dật trong kinh nguyện và dùng thời giờ để dịch các sách tôn giáo.
Anh cũng sốt sắng cầu xin THIÊN CHÚA cho gia đình ơn theo Đạo Công Giáo.
Được
tin Cha Mẹ đã thay đổi thái độ, anh Uông trở về thăm nhà. Sau khi nghe anh rành mạch
trình bày giáo lý Đạo Công Giáo và nhất là thấy tận mắt gương sống đạo đức tốt lành
của con, cả gia đình xin theo Đạo Công Giáo.
Nhân dịp Tết Nguyên Đán 1866,
Alexis Uông lên thủ đô để chúc mừng Năm Mới cụ Marcô Thiên là thầy cũ và là ân nhân.
Nào ngờ tại đây anh bị bắt cùng với cụ Thiên và bị tống giam.
Khi bị thẩm
vấn và bị tra tấn khủng khiếp lần thứ nhất, anh Alexis Uông can đảm chịu đựng. Nhưng
đến lần thứ hai vì bị đánh đau quá, anh liền chối Đạo. Lập tức anh được thả ra.
Vừa được tự do, anh nghe tin Đức Cha Berneux bị bắt cùng với vị Linh Mục thừa sai
người Pháp. Anh bỗng thống hối và ăn năn về tội chối Đạo. Anh nhất định lấy máu mình
gột rửa trọng tội. Anh xin vào nhà giam gặp Đức Cha để xưng tội và sau đó cương quyết
tuyên xưng Đức Tin Công Giáo.
Lòng đau đớn thống hối khiến anh Alexis Uông
anh dũng chấp nhận mọi thứ cực hình khủng khiếp. Từ đó, trước mọi lời dụ dỗ nài nĩ:
”Chỉ cần chối Đạo một câu thôi thì sẽ được sống”, anh Uông vẫn lắc đầu, kiên vững
như đá. Anh lặp đi lặp lại: - Tôi rất muốn sống, nhưng nếu
để được sống mà phải chối
Đạo Công Giáo thì tôi sẵn sàng chết!
Ngày 11-3-1866,
anh Alexis Uông bị chém đầu, hưởng dương 19 tuổi.
... ”Tôi quỳ gối
trước mặt THIÊN CHÚA CHA, là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới
đất. Tôi nguyện xin THIÊN CHÚA CHA, thể theo sự phong phú của Ngài là
Đấng vinh hiển, ban cho anh chị em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần
Khí của Ngài, để con người nội tâm nơi anh
chị em được vững vàng. Xin cho anh chị em nhờ lòng tin, được
Đức Chúa GIÊSU KITÔ ngự trong tâm hồn; xin cho anh chị em được
bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng
toàn thể các thánh, anh chị em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước
dài rộng cao sâu và nhận biết Tình Yêu của Đức Chúa GIÊSU KITÔ là Tình
Yêu vượt quá sự hiểu biết. Như vậy, anh chị em sẽ
được đầy tràn tất cả sự viên mãn của THIÊN CHÚA .. Xin
tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động
nơi chúng ta mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay
nghĩ tới. Xin tôn vinh Ngài trong Hội Thánh và nơi Đức Chúa GIÊSU
KITÔ đến muôn thưở muôn đời. Amen” (Êphêxô
3,14-21).
(Paul Destombes, MEP, ”Au Pays du Matin Calme”, Paris/1968)