Ông Gioan Ngô Kinh Hùng (1899-1986) chào đời tại tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa.
Ông mồ côi Mẹ lúc lên 4 và mồ côi Cha khi mới lên 10. Ông Ngô là nhà luật học quốc
tế danh tiếng, nhà nhân bản học đặc sắc, một người kết hợp hài hòa những nét tuyệt
hảo của 2 nền văn hóa cũ mới, Đông Tây.
Năm 1937, Nhật chiếm Thượng Hải, ông
Ngô trú ẩn tại nhà người bạn tên Nguyễn Gia Hoàng, giáo sư Luật tại Đại học Rạng Đông.
Nhờ sống trong một gia đình Công Giáo nhiệt thành, và nhất là, sau khi đọc truyện
thánh nữ Têrêsa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897), ông Ngô quyết định theo đạo Công Giáo.
Ngày 23-12-1937 ông lãnh bí tích Rửa Tội do Cha Georges Germain, dòng Tên, Viện trưởng
đại học Rạng Đông. Hai năm sau, ông chịu phép Thêm Sức từ tay Đức Cha Enrico Valtorta,
Giám Mục thừa sai người Ý. Từ đó, nhiệt thành truyền giáo thôi thúc ông hăng say rao
giảng Đạo Công Giáo. Xin nhường lời cho ông Gioan Ngô Kinh Hùng.
Sau thời
gian ngắn lãnh phép Thêm Sức, Bí Tích làm cho tôi trở nên chiến sĩ của Đức Chúa GIÊSU
KITÔ, Đức Chúa Thánh Thần thôi thúc tính hăng say và lôi kéo tôi đi vào con đường
tông đồ. Tôi trở thành người chài lưới người, cả đàn ông lẫn đàn bà. Con cá đầu tiên
THIÊN CHÚA đưa vào mạng lưới của tôi lại là một trong những bạn đồng nghiệp của tôi,
ông Phanxicô Chiu Yuan-Yeh, một tín hữu tin lành.
Một ngày mùa đông năm 1939
hai chúng tôi lang thang trên đường phố. Cuộc dạo chơi đưa chúng tôi đi ngang nhà
thờ Đức Bà Mân Côi. Tôi đề nghị với Phanxicô: - Chúng mình vào viếng nhà thờ vài
phút đi.
Phanxicô trả lời: - Không, anh vào một mình. Tôi đợi anh ở ngoài.
Thế là tôi bước vào và tiến thẳng đến bàn thờ dâng kính Đức Mẹ MARIA. Tôi quì sụp
xuống và thưa cùng Đức Mẹ: - Mẹ thấy không! Con để một linh hồn tuyệt vời nơi
ngưỡng cửa đền thánh Đức Mẹ đó! Con đã làm trọn điều phải làm. Bây giờ đến phiên Mẹ.
Thưa Mẹ, Mẹ không để con phải thất vọng. Thật ra, chuyện này thuộc về Mẹ. Hễ người
nào trong chúng con có lòng kính mến Đức Chúa GIÊSU KITÔ cũng đều phải hoạt động chung
với nhau!
Vừa cầu nguyện tôi vừa nghe tiếng mình giống như người tuyệt vọng.
Tôi vừa kêu gào vừa khóc lóc như đứa trẻ trước người Mẹ dấu yêu. Giờ đây tôi vẫn còn
khóc khi nhớ lại biến cố ấy. Nhưng là những giọt nước mắt tri ân, cảm động vì thấy
Đức Mẹ MARIA mau mắn nghe lời tôi nài xin. Lấy khăn chùi khô nước mắt xong, tôi ra
khỏi nhà thờ đến nơi Phanxicô đang đứng đợi. Dĩ nhiên tôi không hé môi kể cho Phanxicô
nghe những gì vừa xảy ra trong thánh đường. Tôi lấy dáng điệu thật vui, trò chuyện
với Phanxicô. Sau đó chúng tôi chia tay, ai về nhà nấy.
Những ngày kế tiếp,
tôi tự quyết không gọi điện thoại cho Phanxicô. Sang ngày thứ tư, chính Phanxicô đến
nhà tôi và nói: - Gioan à, không rõ có gì xảy ra cho tôi. Lần đầu tiên, tôi cảm
thấy một điều thật lạ kỳ. Tôi cảm thấy một sức mạnh lôi kéo thúc giục tôi: tôi muốn
được rửa tội càng sớm càng tốt! Tôi sẽ viết ngay một lá thư cho Cha Nicola Maestrini
(1908-2006) để loan báo quyết định của tôi.
Nghe Phanxicô nói tôi lại khóc,
nhưng khóc vì vui sướng và vì cảm phục. Dầu vậy, tôi vẫn không tiết lộ cho bạn biết
bí mật của mình. Phanxicô lãnh bí tích Rửa Tội, gia nhập Giáo Hội Công Giáo ngày 2-2-1940,
nhằm lễ Đức Mẹ dâng Hài Nhi GIÊSU vào Đền Thánh. Từ đó Phanxicô sống đạo nhiệt thành.
Anh dùng toàn sức lực để phụng sự THIÊN CHÚA và phục vụ Giáo Hội Công Giáo, duy nhất,
thánh thiện, và tông truyền. Sau nhiều năm hoạt động hăng say, anh trút hơi thở cuối
cùng ngày 1-3-1948.
... Một linh hồn tuyệt vời khác THIÊN CHÚA đặt trên đường
tôi đi và tôi đã đưa về với Ngài là cô Alice Chow. Cô cũng là bạn đồng nghiệp của
tôi. Một buổi tối, cả hai chúng tôi được mời tham dự một buổi hội vũ. Trong buổi hội,
tôi mời Alice nhảy với tôi. Đang lúc đi theo điệu nhạc, Alice xin tôi giới thiệu cho
cô vài tác phẩm thiêng liêng, hữu ích cho cô. Tôi thầm thì vào tai Alice: - Tôi
đang đọc bản dịch mới cuốn Theo Gương Đức Chúa GIÊSU. Ngày mai, tôi sẽ tặng cô một
bản.
Khi buổi hội vũ kết thúc, Alice xin tôi đưa cô về nhà, vì cô có điều
muốn thổ lộ với tôi. Tôi gọi taxi và cả hai chúng tôi cùng lên xe.
Trên taxi,
Alice cho tôi biết cô là tín hữu Công Giáo nhưng từ 14 năm nay, cô bỏ Đạo, không xưng
tội cũng không rước lễ. Thế rồi không rõ vì lý do gì, Alice bỗng òa lên khóc. Tôi
an ủi: - Bạn đã bỏ rơi THIÊN CHÚA, nhưng thật ra Ngài vẫn nhớ đến bạn. Ngài hằng
chờ đợi bạn suốt trong thời gian qua. Không gì dịu ngọt cho bằng trở về với Người
Bạn Xưa. Điều cần thiết nhất ngay lúc này đây là dọn mình xưng tội. Tôi sẽ giới thiệu
bạn với một Linh Mục vô cùng khả ái. Ngài tên là Nicola Maestrini.
Alice lo
âu hỏi tôi: - Ngài thánh thiện bằng Cha Jacquinot ở Thượng Hải không?
Tôi trả lời: - Rồi chính bạn sẽ thấy Ngài như thế nào.
Vài ngày sau, chúng
tôi cùng đến gặp Cha Maestrini và Alice giao hòa với Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Từ đó cô
Alice Chow sống đời một tín hữu Công Giáo tốt lành đạo đức.
... ”Trước
mặt THIÊN CHÚA và Đức GIÊSU KITÔ, Đấng sẽ phán xét kẻ
sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền,
tôi tha thiết khuyên anh: Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện
cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ,
với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời
người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng chạy theo
những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai
muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng
về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự,
hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người
loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (Thư 2 thánh Phaolô gởi
ông Timôthê 4,1-5).
(John Ching-Hsiung Wu, ”Par-delà l'Est et l'Ouest”,
traduit de l'anglais par Franz Weyergans, Éditions Casterman, 1960, trang 97-107)