Tầm quan trọng của việc đào tạo các linh mục tương lai
Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Jean Louis Brugues, Thư ký Bộ Giáo Dục Công Giáo về việc
đào tạo các linh mục
Trong buổi tiếp kiến chung 2000 tín hữu và du khách hành
hương năm châu sáng thứ tư 20-8-2009, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc đào tạo các linh mục tương lai trên bình diện trí thức và tinh
thần, cũng như tầm quan trọng và sự cần thiết của các chương trình thường huấn sau
đó. Gợi lại gương của cha Jean Eudes sống vào thế kỷ thứ XVII, là người đã có sáng
kiến thành lập chủng viện để đào tạo hàng giáo sĩ giáo phận tại Caen bên Pháp, Đức
Thánh Cha nói linh đạo của thánh nhân là trung thành với tình yêu mà Thiên Chúa đã
vén mở cho nhân loại trong Con Tim của Chúa Giêsu và Con Tim của Mẹ Maria. Thánh nhân
mời gọi mọi người, nhất là các linh mục, dấn thân sống thể nào để có được con tim
như con tim của Chúa Giêsu và con tim của Mẹ Maria. Phúc Âm thánh Marcô ghi rõ là
Chúa Giêsu đã tuyển chọn các tông đồ để các vị ở với Ngài và để Ngài sai các vị ra
đi rao giảng Tin Mừng. Đó cũng là mục đích của thời gian được đào tạo trong các chủng
viện.
Sau đây chúng chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn
Đức Tổng Giám Mục Jean Louis Brugues, Thư ký Bộ Giáo Dục Công Giáo, về việc đào tạo
các linh mục. Trong các tháng tới đây dưới ánh sáng của Năm Linh Mục, Bộ Giáo Dục
Công Giáo sẽ nhóm họp Ủy Ban liên cơ quan trung ương Tòa Thánh đặc trách việc đào
tạo các linh mục tương lai như trọng tâm công tác giáo dục trong sứ mệnh của Giáo
Hội.
Hỏi: Thưa Đức Cha Bruguès, trong Thông điệp
”Yêu thương trong sự thật” Đức Thánh Cha Biển Đức
XVI mời gọi ngày càng thăng tiến việc giáo dục cho mọi dân tộc trên
thế giới. Bộ Giáo Dục Công Giáo có cảm thấy mình được mời gọi hay không?
Đáp: Trước hết chúng ta có thể ghi nhận ba điều. Thứ nhất Đức Thánh Cha đặt việc
giáo dục vào trong nguyên tắc của tình liên đới. Trong Thông điệp Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI nhắc lại các nguyên tắc lớn trong giáo huấn xã hội của Hội Thánh là phụ đới
và liên đới. Như thế giáo dục là một vấn đề của sự liên đới giữa các lãnh vực và các
thế hệ khác nhau trong một xã hội. Điểm thứ hai đó là việc giáo dục gỉa thiết một
sự biết thông truyền. Đức Thánh Cha trở lại ý niệm hiểu biết này trong nhiều dịp.
Chắng hạn ở số 30 của Thông điệp ngài khẳng định rằng: ”Tình bác ái không loại trừ,
trái lại nó đòi hỏi sự hiểu biết”. Không có sự hiểu biết thì tình bác ái không hữu
hiệu. Nó không chỉ là vấn đề của các tâm tình tốt đẹp. Nhưng cũng cần phải dùng sự
hiểu biết để thay đổi các sự vật nữa. Điểm thứ ba đó là Kitô hữu chúng ta tin nơi
một sự đào tạo toàn vẹn con người. Người ta nói tới việc đào tạo toàn vẹn; nó giả
thiết một quan niệm toàn thể về con người trong các chiều kích khác nhau của nó.
Dưới ánh sáng của các nhận xét trên, cơ quan của chúng tôi được khích lệ hai lần:
trước hết là đánh gía cao sự hiểu biết và nền văn hóa. Chúng tôi đang phát triển các
cơ cấu khác nhau tùy thuộc Bộ Giáo Dục Công Giáo thăng tiến một nền văn hóa phẩm chất,
đây là điều tôi đã tìm thấy trong Thông điệp. Thứ hai chúng tôi nhấn mạnh trên việc
đào tạo con người toàn vẹn, đặc biệt là chiều kích tinh thần, có nguy cơ bị lãng quên
trong xã hội tục hóa ngày nay.
Hỏi: Trong sứ điệp gửi hội
nghị thượng đỉnh của khối G8 tại L'Aquila, Đức
Thánh Cha đã đề cao tầm quan trọng của việc giáo dục và nêu bật
rằng nó là điều kiện không thể thiếu cho hoạt động của
nền dân chủ, cho cuộc chiến chống lại nạn gian tham hối lộ, và cho việc thực thi các
quyền chính trị và xã hội. Giáo Hội có thể cống hiến phần đóng góp nào trong
nghĩa này, thưa Đức Cha?
Đáp: Bộ Giáo Đục Công Giáo có trách
nhiệm đối với 1.200 đại học trên thế giới, hơn 2.700 chủng viện và 250.000 trường
công giáo. Bộ Truyền Giáo cũng đặc trách các cơ sở giáo dục tại Phi châu và Á châu.
Điều này cho thấy các cơ cấu giáo dục này là một khả thể, qua đó Giáo Hội tham dự
vào việc tạo thành một nền văn hóa của một quốc gia xác định. Không có phương thế
nào giúp hội nhập vào một nền văn hóa của một nước một cách tốt đẹp hơn, nếu không
phải là qua các trường học và đại học. Như thế các cơ sở giáo dục là một khả thể đối
với Giáo Hội cũng như đối với xã hội; và nỗ lực sư phạm to lớn mà chúng tôi đã làm
từ bao thế kỷ nay, chúng tôi dùng nó để phục vụ cộng đoàn nhân loại.
Hỏi:
Phục vụ với các mục đích nào thưa Đức Cha?
Đáp: Có
hai mục đích: mục đích thứ nhất đã được Đức Thánh Cha nhắc tới trong thư công bố Năm
Linh Mục: đó là trả lại cho linh mục việc yêu thích chức linh mục và giúp tìm lại
căn tính rõ ràng hơn điều đang thấy xảy ra nơi nhiều quốc gia. Trong một vài bối cảnh
văn hóa, xem ra gương mặt của tu sĩ nam nữ hiển nhiên hơn gương mặt của linh mục giáo
phận. Vì thế đây là dịp tuyệt vời giúp tái khám phá ra bản chất linh mục và sự cần
thiết của linh mục đối với Giáo Hội. Do đó mục đích thứ hai là tái khám phá ra thế
đứng của linh mục trong lòng cộng đoàn Kitô và nói chung trong Giáo Hội.
Như
vậy có hai chiều kích mời gọi Bộ Giáo Dục. Như là cơ quan đặc trách việc đào tạo các
chủng sinh, chúng tôi phải giúp các chủng sinh hiểu sứ điệp này: các bạn đã được tuyển
chọn, đó là một vinh dự, hãy hạnh phúc là linh mục. Tôi muốn rằng chủng viện là một
trường học của hạnh phúc là linh mục. Đó là chiều kích thứ nhất. Chiều kích thứ hai
là việc đào tạo được cống hiến cho các chủng sinh phải tốt chừng nào có thể.
Mỗi khi tiếp các Giám Mục về thăm các cơ quan trung ương Tòa Thánh, Đức Hồng Y Tổng
trưởng của chúng tôi thích lập lại với các vị rằng: ”Xin các Đức Cha hãy dành ra các
linh mục tốt nhất cho việc đào tạo các chủng sinh, đó là điều rất đáng công”.
Hỏi: Thưa Đức Cha, Năm Linh Mục là dịp để
duyệt xét và kiểm thực lại việc đào tạo các ứng sinh linh mục trong
các chủng viện. Bộ Giáo Dục có đưa ra các sáng kiến nào không?
Đáp: Trong năm nay sẽ có các sinh hoạt đặc biệt. Như là chủ tịch Ủy ban
liên bộ thường trực đặc trách việc thu nhận các chủng sinh, Đức Hồng Y Tổng trưởng
Bộ Giáo Dục có ý triệu tập một phiên hội trong năm nay. Mục đích là để soạn thảo một
văn kiện và công bố vào cuối Năm Linh Mục, một văn kiện ngắn gọn nhưng rõ ràng chính
xác liên quan tới việc đào tạo các ứng sinh linh mục.
Hỏi: Mới đây
Đức Thánh Cha đã mời gọi vượt thắng khuynh
hướng nhị nguyên giữa ý niệm bí tích - bản thể và ý niệm nhiệm vụ xã hội của
chức linh mục. Đây có phải là con đường hòa giải giữa
hai chiều kích này của chức linh mục hay không, thưa Đức Cha?
Đáp: Xem ra trong Giáo Hội các tình hình có thể rất khác nhau. Có những nước trong
đó người ta nhấn mạnh chiều kích xã hội, vai trò xã hội của vị linh mục: như tôi đã
trông thấy bên Phi châu, và Châu Mỹ Latinh cũng như tại Đại Hàn bên Á châu. Vị linh
mục không chỉ nắm giữ một vai trò giữa lòng cộng đoàn mà cả giữa lòng xã hội nữa.
Trong khi tại các xã hội rất bị tục hóa như Italia chẳng hạn, vai trò xã hội của linh
mục bị giảm thiểu đi.
Có lẽ với luật trừ là Italia, nơi xã hội bị tục hóa
nhưng Giáo Hội đã biết sống bình dân và rất hiện diện trong cuộc sống xã hội, cũng
như trong cuộc sống chính trị. Vì thế hai khía cạnh này tạo ra một sự căng thẳng cần
thiết và hữu ích. Thật là điều bình thường, khi linh mục có vai trò xã hội, vì ngài
là một mục tử, ngài là đầu của một phần dân Chúa, như Công Đồng Chung Vaticăng II
đã nói. Trong danh nghĩa đó linh mục là nhân vật hữu hình trong xã hội.
Nhưng
mà ngài cũng là người trung gian giữa trời và đất: ngài biểu lộ Chúa Kitô, hành động
nhân danh Chúa Kitô. Cho nên tôi thấy cần phải duy trì sự căng thẳng đó ở khắp nơi,
vì nó tốt cho chức linh mục và cho dân Kitô. Vì thế trước hết cộng đoàn tín hữu phải
cảm thấy mình có trách nhiệm đối với vị linh mục hướng dẫn họ. Khi tôi còn là Giám
Mục giáo phận Angers bên Pháp, mỗi khi chỉ định một cha sở mới, tôi đều đến giới thiệu
ngài với tín hữu và nói: ”Tôi tín thác cha xứ cho anh chị em”. Vị linh mục cần được
cộng đoàn tín hữu giúp đỡ. Thứ hai, mỗi linh mục cần phải được linh mục đoàn giúp
đỡ. Chúng ta phải nhấn mạnh chiều kích huynh đệ của linh mục đoàn. Có qúa nhiều linh
mục đau khổ vì cô đơn, và vì thế có nguy cơ bỏ quên khía cạnh này hay khía cạnh kia
trong hai khía cạnh vừa nói. Một linh mục là một người bạn, một người anh em giữa
lòng đại gia đình của linh mục đoàn. Và liên quan tới Bộ Giáo Dục thì còn có một con
đường thứ ba: đó là chủng viện. Nó là nơi, trong đó các chủng sinh học biết sống hai
khía cạnh này của chức linh mục trên bình diện thần học.
Hỏi: Bộ có cảm
thấy cần phải định hướng trở lại việc giáo dục trong các
cơ cấu đào tạo của Giáo Hội hay không, thưa Đức
Cha?
Đáp: Một nền đào tạo tốt là một nền đào tạo có khả năng thích
ứng với các thay đổi của xã hội. Tôi xin lập lại điều tôi đã nói trong nhiều dịp khác
nhau: đương nhiên là người trẻ ngày nay khác với thời của chúng tôi, nhưng cần phải
chấp nhận họ với lòng quảng đại. Cần phải quảng đại đón nhận các thế hệ mới và cũng
cần phải có óc phân định: phân định xem họ có lòng can đảm hay không và phân định
những gì cần sửa đổi. Tôi nhận thấy các người trẻ gia nhập các nhà đào tạo tại các
nước như Italia, Tây Ban Nha, Pháp, Đức và Hoa Kỳ đều có một trình độ đào tạo nghề
nghiệp rất tốt, đôi khi tới các cấp cao tại đại học, nhưng họ thiếu một nền văn hóa
tổng quát và nhất là thiếu nền văn hóa Kitô. Vì thế tôi cầu mong chương trình đào
tạo bắt đầu với một năm dự bị và thích ứng với diện mạo của các thế hệ mới. Và cũng
cần phải tránh việc phân tán các môn học trong chương trình đào tạo; trái lại phải
có một cái nhìn tổng hợp về thần học, nhấn mạnh trên vai trò của triết học, đặc biệt
là khoa siêu hình, như là bước chuẩn bị cho thần học.
Hỏi: Thưa
Đức Cha Brugues, các chỉ thị của tài liệu Định hướng
công bố năm 2008 có đề cập tới việc sử dụng các khoa học tâm lý trong
việc thu nhận và đào tạo các ứng sinh linh mục. Thế thì trong những
trường hợp nào có thể cậy nhờ các chuyên viên của khoa tâm lý?
Đáp: Câu trả lời rất đơn sơ: đó là khi nào thấy nó ”cần thiết”. Trong tài liệu
của Bộ Giáo Dục chúng tôi đã muốn phản ứng lại hai thái cực. Thái cực thứ nhất là
nói rằng tất cả mọi chủng sinh đều phải được các chuyên viên tâm lý thử nghiệm. Thái
cực thứ hai là khẳng định rằng cần phải coi chừng đừng có tin nơi khoa tâm lý và các
nhà tâm lý. Tài liệu nói trên có giọng điệu rất tích cực đối với vấn đề này. Đôi khi
người ta trách Giáo Hội là đã tỏ ra xa cách và đôi khi nghi ngờ khoa tâm lý học. Thật
ra không đúng. Bằng chứng là tài liệu của chúng tôi có khẳng đinh rằng khi cần thiết,
thì phải nhờ các chuyên viên tâm lý. ”Khi cần thiết” có nghĩa là gì? Đó là khi nó
có thể giúp ứng sinh vượt thắng các vết thương chưa lành và chúng gây ra các quấy
phá mà chính đương sự cũng không hiểu biết tầm nghiêm trọng của chúng, và thường khi
lại đổ lỗi một cách sai lầm cho các lý do ngoại tại, và như thế không có khả năng
đương đầu với chúng một cách thích hợp.