- Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được an bình ra
đi!
Cứ mỗi lần ngã bệnh nằm liệt giường, Cha Paul Coucke, vị Linh Mục lão
thành trên 100 tuổi, thường thầm thì hát lời kinh Nunc Dimittis trên đây của cụ già
Siméon, để xin THIÊN CHÚA cất về với Ngài. Thế nhưng, lời kinh hình như chưa vang
tới tai Chúa, bởi vì, Cha Paul lại khoẻ mạnh, lại ngồi ghế lăn, tự đẩy ghế đi nhà
thờ tham dự Thánh Lễ hoặc đến phòng ăn dùng bữa. Và cứ mỗi lần khỏi bệnh như thế,
Cha lại hóm hỉnh nói với anh em trong cộng đoàn:
- Hẹn kỳ bệnh tới!
Hẹn đi hẹn mãi cho đến ngày 29-5-1999, Cha Paul Couke thật sự an bình ra đi về Nhà
Cha. Cha Paul hưởng thọ 101 tuổi, trong đó có 32 năm truyền giáo tại Nội-Mông-Cổ.
Lần này, đến phiên anh em trong cộng đoàn lại hát thánh vịnh 21 đưa tiễn Cha:
- Phúc thọ người xin, Chúa đã ban cho - 100 năm - những chuỗi ngày không bao giờ chấm
dứt.
Cha Paul Coucke chào đời ngày 27-1-1898 tại Dentergem, thuộc vương quốc
Bỉ, trong một gia đình làm nghề nông. Dentergem nằm ở vùng Tây Flandre giữa biên giới
hai nước Pháp và Bỉ. Sau khi mãn triết học và hai năm thần học trong Đại Chủng Viện
Brugge, thầy Paul Coucke xin gia nhập tập viện các Cha Thừa Sai Scheut, tức dòng Khiết
Tâm Đức Mẹ MARIA. Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ được thành lập vào năm 1862, với mục đích
truyền giảng Tin Mừng cho các dân ngoại, khởi đầu là dân tộc Trung Hoa. Dòng chào
đời tại Scheut, một làng nhỏ thuộc vương quốc Bỉ. Do đó, ngoài tên gọi dòng Khiết
Tâm Đức Mẹ, các Linh Mục dòng này còn có một danh xưng khác: Các Cha Thừa Sai Scheut.
Thầy Paul Coucke tuyên khấn lần đầu trong dòng Khiết Tâm Đức Mẹ ngày 8-9-1922 và thụ
phong Linh Mục vào ngày 31-12-1922. Một năm sau, 1923, tân Linh Mục Paul được gởi
đi truyền giáo tại Mông Cổ Nội. Và Cha ở lại đây trong vòng 32 năm trời. Trong thời
gian này, Cha Paul hoạt động mục vụ tại nhiều cứ điểm truyền giáo khác nhau. Năm 1955,
Cha Paul Coucke là vị thừa sai Tây Phương cuối cùng bị chính quyền cộng sản trục xuất
khỏi Trung Hoa lục địa.
Trở về vương quốc Bỉ, Cha Paul xuôi ngược đó đây trong
nước để giải thích cho người đồng hương hiểu về tình hình mới của Trung Cộng. Cùng
lúc, Cha giúp công tác mục vụ tại nhiều giáo xứ khác nhau cho đến năm 83 tuổi thì
về hưu.
Tình thương Cha Paul Coucke dành cho Trung Quốc thật rộng lớn, không
giảm sút nhưng tăng mãi với thời gian. Câu tục ngữ ”Cách mặt xa lòng” không được áp
dụng trong trường hợp của Cha Paul Coucke. Rời Trung quốc sau 32 năm phục vụ với tuổi
đời chưa tròn 60, đã để lại nơi lòng Cha một vết thương không bao giờ lành. Từ lúc
giã biệt Trung Quốc dấu yêu, không ngày nào mà Cha không nghĩ đến Trung Hoa. Cha theo
dõi mọi biến chuyển vui mừng và đau thương, tìm hiểu và bênh vực Trung Quốc. Ngay
khi Giáo Hội Công Giáo Trung Hoa bắt đầu có những nứt rạn và phân rẽ giữa hai khối
”quốc doanh và thầm lặng”, Cha vẫn tiếp tục yêu thương và bênh đỡ cả hai bên. Cha
thường nói:
- Xin cảm tạ THIÊN CHÚA, bởi vì chúng ta biết cách chắc chắn rằng,
những bức tường phân rẽ không bao giờ vươn đến tận Trời Cao!
Cha còn là người
con trung tín với Giáo Hội Công Giáo Roma. Cha luôn mặc áo chùng thâm Linh Mục. Chỉ
vào khoảng cuối đời, Cha mới ăn mặc đơn giản gọn gàng hơn. Hơn một thế kỷ cuộc đời,
với 76 năm thi hành chức vụ Linh Mục, Cha đã sống cuộc đời thừa sai Scheut thật tràn
đầy và viên mãn. Cha vẫn giữ được tinh thần sáng suốt và hóm hỉnh cho đến giây phút
sau cùng. Cha ra đi nhưng Cha để lại nơi những người từng được hân hạnh quen biết
Cha một lòng quý mến sâu xa và bền chặt. Mọi người cùng nhau cầu cho linh hồn Cha
Paul Coucke được an nghỉ muôn đời, theo lời Chúa đã hứa ban cho những đầy tớ tín trung,
hết lòng phục vụ Ngài.
... Hỡi ai nương tựa Đấng
Tối Cao, và núp bóng Đấng Quyền Năng tuyệt đối,
hãy thưa với Chúa rằng: ”Lạy THIÊN CHÚA, Ngài là nơi con náu
ẩn, là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài”.
Chính Chúa gìn giữ bạn khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi
tai ương tàn khốc. Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người,
bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ. Bạn sẽ
không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày, cả dịch
khí hoành hành trong đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa. Dù tả
hữu có ngàn người quỵ ngã, dù hai bên có chết cả vạn người,
riêng phần bạn, tuyệt nhiên không hề hấn (Thánh Vịnh 90 1-7).