Chuyện kể lại rằng có vị ẩn sĩ Ý cao niên sống nơi khu rừng cách xa làng mạc đông
dân cư. Vị ẩn sĩ có dáng điệu thật khiêm tốn và có đời sống vô cùng đạo đức. Ẩn sĩ
phân chia một ngày sống cách hòa điệu giữa lao động và suy gẫm nguyện cầu. Mỗi tháng
một lần, ẩn sĩ rời tịch liêu đến ngôi làng gần nhất để mua sắm vật dụng cần thiết
và chút ít lương thực. Suốt quãng đường từ rừng sâu ra tới làng mạc, ẩn sĩ liên tục
đọc kinh Mân Côi với Tràng Chuỗi trong tay.
Thế rồi xảy ra vào một ngày, tâm
lòng vị ẩn sĩ bỗng nổi lên nỗi nghi ngờ. Ẩn sĩ tự hỏi:
- Phải chăng Đức Nữ
Trinh Rất Thánh MARIA nghe rõ lời Kinh Mân Côi mình đọc và tháp tùng mỗi khi mình
lần hạt Mân Côi???
Tư tưởng lo âu bám sát ẩn sĩ trên lộ trình đi xuống làng
để mua sắm. Như thường lệ, vị ẩn sĩ đến tiệm bánh mì trước rồi mới tới các chỗ mua
sắm khác. Sau khi hoàn tất công việc, ẩn sĩ lui gót trở về chốn tịch liêu theo lộ
trình ngược lại. Lúc ẩn sĩ qua khỏi tiệm bánh mì một quãng, thì người bán bánh mì
tò mò đi theo ẩn sĩ. Đã bao năm qua, vị ẩn sĩ là khách hàng thân thương của ông. Khi
đến gần, ông ghé miệng sát vào tai ẩn sĩ và hỏi:
- Xin ngài nói cho con biết,
Người Đàn Bà tuyệt đẹp đi bên cạnh, cầm tay phải của ngài và không bao giờ rời ngài,
là Ai vậy?
Thoạt nghe câu hỏi, vị ẩn sĩ tỏ dấu không hiểu gì hết. Nhưng rồi,
liếc sang bàn tay phải và trông thấy tràng chuỗi Mân Côi, ẩn sĩ hiểu tức khắc chuyện
gì xảy ra. Vị ẩn sĩ cao niên bồi hồi xúc động. Đức Mẹ MARIA chẳng những kề bên mỗi
khi ẩn sĩ lần hạt Mân Côi mà còn đích thân cầm tay đồng hành suốt trên lộ trình của
ẩn sĩ. Vị ẩn sĩ chỉ còn biết dâng lời cảm tạ và càng tha thiết yêu mến Hiền Mẫu MARIA
thiên quốc với trọn tâm tình tri ân thảo hiếu.
... Câu chuyện thứ hai xảy
ra trong bối cảnh hoàn toàn khác biệt nhưng cũng thật dịu dàng êm ái.
Một
nữ đan viện Kín bên nước Pháp ở vào thời kỳ cách đây khá lâu. Tại Đan Viện, đều đặn
mỗi ngày có một vị ân nhân ẩn danh mang đến cho các nữ đan sĩ dồi dào lương thực.
Mẹ Bề Trên vô cùng ngạc nhiên. Bởi lẽ, ngoài việc mang cho Đan Viện đúng y như những
gì Đan Viện đang cần trong ngày, vị ân nhân quảng đại cư xử thật kín đáo. Sau khi
đặt tất cả các vật mang đến trong ”chiếc bàn xoay”, vị ân nhân lặng lẽ ra đi không
nói lời nào.
Vào một ngày, Mẹ Bề Trên ra nhà khách và đứng đợi bên ”chiếc
bàn xoay”. Sau khi vị ân nhân kéo chuông báo hiệu như thường lệ, Mẹ Bề Trên cất tiếng
hỏi thật lớn:
- Ngài là Ai? Nhân danh Tình Yêu THIÊN CHÚA, xin ngài cho tôi
biết quí danh.
Im lặng hoàn toàn. Không có tiếng trả lời. Mẹ Bề Trên cảm thấy
hơi-hơi lo sợ. Tuy nhiên, vốn bản tính điềm tĩnh, Mẹ Bề Trên lập lại câu hỏi. Sau
một phút thinh lặng, Mẹ Bề Trên bỗng nghe rõ một tiếng nói thật êm ái dịu dàng cất
lên trả lời:
- Thầy là Đức GIÊSU thành Nagiarét mà các con trọn lòng yêu mến.
Các con phụng sự Thầy trong đơn sơ kín ẩn của Đan Viện. Các con nghĩ đến Thầy và Thầy,
Thầy hằng nghĩ đến các con!
Nói sao cho cùng, kể sao cho hết tâm tình tri
ân cảm mến của Mẹ Bề Trên Đan Viện. Mẹ mau mắn kể lại cho các nữ Đan Sĩ nghe câu chuyện
ngọt như mật vừa xảy ra. Kể từ giây phút đó, toàn thể Đan Viện gia tăng kinh nguyện
sốt sắng và làm nhiều việc hy sinh hãm mình hơn để làm đẹp lòng Đức Chúa GIÊSU KITÔ,
Đấng là Tình Quân muôn thưở của từng linh hồn các nữ đan sĩ.
... ”Người
yêu của con: khuôn mặt tươi sáng, nước da hồng hào, nổi bật giữa
muôn ngàn trai tráng. Đầu chàng: khối vàng ròng tinh luyện, mái tóc chàng gợn
sóng nhánh cọ non, đen huyền chim ô thước. Mắt chàng nằm
gọn giữa bờ mi, như đôi bồ câu tắm bên dòng suối sữa. Đôi má
chàng tựa luống hoa thơm, như vầng phương thảo.
Cặp môi chàng là đóa huệ thắm tươi, chứa chan tươm
mộc dược. Đôi nắm tay như những trái
cầu vàng dát kim châu, bảo thạch .. Thân mình chàng tựa ngọc ngà nguyên khối nạm
đá quý xanh lam. Đôi chân chàng như đôi trụ bạch ngọc dựng trên
đế vàng ròng. Tướng mạo chàng tựa núi Libăng, kiêu hùng
như ngàn cây hương bá. Miệng chàng êm ái ngọt ngào, cả con người
những dạt dào hương yêu. Người con yêu là như thế, tình
quân con là như vậy, hỡi thiếu nữ Giêrusalem!” (Sách Diễm Ca 5,
10-16).
(”La Mia Messa”, volume II, Marzo-Aprile-Maggio/2009, Anno III/B,
Casa Mariana Editrice, trang 378+370)